Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: đạo đức của cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay - thực trạng và những vấn đề nảy sinh 5
1.1. Yêu cầu đạo đức của người cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay 5
1.2. Thực trạng đạo đức của cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước và những nguyên nhân 32
Chương 2: những giải pháp cơ bản nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước hiện nay 50
2.1. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cách mạng và phát huy ý thức tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước 50
2.2. Tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước 55
2.3. Lành mạnh hóa môi trường kinh tế - x• hội 62
Kết luận 65
Danh mục tài liệu tham khảo 67
A THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG :
1 Khái niệm :
Theo Adam Smith thị trường là không gian trao đổi trong đó người mua và người bán gặp nhau thỏa thuận trao đổi hàng hóa và dịch vụ nào đó.
Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của kinh tế thị trường và chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường : như quy luật giá trị, giá cả, cạnh tranh, độc quyền….Các quy luật này tác động và chi phối mối quan hệ cung và cầu của thị trường lao động. Vậy cung cầu là gì ?
Hình 1
Cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được. Cầu lao động được coi là cầu dẫn xuất hay là cầu gián tiếp. Bởi lẽ, xuất phát từ nhu cầu về sản phẩm mới có nhu cầu về lao động để sản xuất ra sản phẩm đó. Cầu về lao động khác với lượng cầu về lao động. Cầu về lao động mô tả toàn bộ hành vi người mua có thể mua được hàng hóa sức lao động ở mỗi mức giá hay ở tất cả các mức giá có thể đặt ra. Ở mỗi mức giá có một lượng cầu xác định.
Cầu về sức lao động có liên quan chặt chẽ với giá cả sức lao động ( tiền lương ), khi giá cả tăng ( hay giảm ) sẽ làm cho cầu về lao động giảm và ngược lại ( tức là cầu về sức lao động tỷ lệ nghịch với giá cả sức lao động). Bởi vậy, nếu vẽ trên đồ thị ( hình 1) đường cầu là đường AB. Tại mỗi điểm trên đường cầu này sẽ ứng với mỗi lượng tiền lương nhất định và số lượng sức lao động nhất định. Ví dụ tại A có mức giá là J1; số lượng sức lao động tương ứng là Q1; Tại điểm B với mức giá là J2; số lượng sức lao động tương ứng là Q2 và J1> J2 nên Q2> Q1.
Cung lao động : là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định. Cũng giống như cầu và lượng cầu. Cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thỏa thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với giá cả sức lao động, khi tiền lương tăng, lượng cung lao động sẽ tăng. Trên đồ thị hình 1 biễu diễn đường cung là CD. Tại điểm C với mức giá J3 lượng cung sức lao động là Q3. Tại điểm D với mức giá J4 lượng cung sức lao động là Q4 và do giá J4> J3 nên Q4> Q3.
Điểm cân bằng : E là điểm gặp nhau của đường cung và đường cầu. Tại đó lượng cầu bằng lượng cung ( tức Q0 ) mức giá J0 gọi là mức giá cân bằng.
2. Các nhân tố tác động tới cung lao động :
Cung trên thị trường lao động phụ thuộc vào tổng số lao động có thể cung cấp. Tổng số lao động này phụ thuộc vào quy mô dân số tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động, độ dài của thời gian làm việc và chất lượng của lực lượng lao động. Sau đây chúng ta xem xét mộ t số trong các nhân tố trên.
2.1 Sự phát triển dân số và cung lao động :
Dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân lực. Quy mô nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô dân số và quy mô dân số tại thời kỳ nào đó lại phụ thuộc vào sự tăng tự nhiên (số sinh trừ đi số chết) và tăng, giảm cơ học. Quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số nhanh sẽ báo hiệu quy mô lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh của nguồn nhân lực trong tương lai.
Cung sức lao động là bộ phận sức lao động được đưa ra trên thị trường nó phụ thuộc không chỉ vào quy mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực, nó còn phụ thuộc vào số người (tỷ lệ) tham gia của lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động được tính bằng cách so sánh lực lượng lao động thực tế với lực lượng lao động tiềm năng.
Lực lượng lao động thực tế là bộ phận dân cư trong tuổi lao động, có khả năng lao động hiện đang làm việc trong các ngành của nền kinh tế quốc dân và những người chưa có việc làm nhưng đang đi tìm việc làm.
Lực lượng lao động tiềm năng là khả năng lao động của xã hội tức là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động ( nguồn nhân lực có sẳn trong dân số hay là dân số hoạt động ) ( Labor foree participation rate LFPR).
Lực lượng lao động thực tế
LFPR = ---------------------------------- x 100
Lực lượng lao động tiềm năng
Tỷ lệ tham gia có thể được xác định tương tự cho các nhóm trong dân số khác nhau : nam, nữ, nữ có gia đình…..
Rõ ràng tỷ lệ này cao ( tiến dần đến 100%) khi lực lượng lao động trên thị trường tăng lên và khai thác được triệt để tiềm năng về nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
2.2 Cung thời gian lao động :
Quỹ thời gian của con người là có hạn, mỗi người phải lựa chọn để sử dụng quỹ thời gian đó một cách hợp lý nhất. Do nhiều nguyên nhân, mỗi người có cách lựa chọn khác nhau song thực tế có mấy loại :
- Tăng thời gian làm việc, giảm thời gian nghỉ ngơi. Đây là những người ham công việc hay có nhu cầu thu nhập cải thiện mức sống.
- Tăng thời gian nghỉ ngơi, giảm thời gian làm việc : đó là đối với người có thu nhập cao hay do tuổi cao.
- Lựa chọn thời gian làm việc và nghỉ ngơi hợp lý vừa đảm bảo thu nhập, vừa thỏa mãn được nhu cầu vui chơi, giải trí.
Thứ hai, nhân tố khách quan đó là giới hạn thu nhập trên thị trường lao động.
Ta xét nhân tố chủ quan : sở thích của cá nhân. Một điều hết sức rõ là xem xét mối quan hệ giữa thu nhập, thời gian làm việc và giải trí ta thấy : thu nhập tỷ lệ thuận với thời gian làm việc và tỷ lệ nghịch với thời gian giải trí. Để mô tả mối quan hệ giữa thu nhập và thời gian giải trí, người ta dùng khái niệm đường bàng quan. Đường bàng quan thể hiện những kết hợp khác nhau của thu nhập thực tế và thời gian giải trí mà nó đưa lại cho cá nhân người lao động ( đường S trên đồ thị hình 2 ) . Với một điểm bất kỳ trên đường bàng quan thể hiện một cách kết hợp giữa thu nhập và giải trí tức là đạt được độ thỏa dụng nhất định. Tất cả mọi điểm trên đường bàng quan đều có độ thỏa dụng như nhau.
Hình 2
Ta xét nhân tố khách quan : sự ràng buộc về khả năng thu nhập trên thị trường lao động. Bản thân mỗi người chịu sự giới hạn bởi lượng tiền mà anh ta có và tiền lương trên thị trường là cho trước và không thay đổi. Để mô tả khả năng này người ta dùng đường ngân sách. Đường ngân sách thể hiện khả năng thu nhập của người lao động trong mối quan hệ với thời gian làm việc và nghỉ ngơi ( chúng ta giả định rằng người lao động chỉ có thất nghiệp duy nhất từ thị trường lao động. Trên đồ thị hình 2, đường N là đường ngân sách.
Sự kết hợp tối ưu giữa ưa thích cá nhân ( chủ quan ) được biểu hiện trên đường bàng quan với các thông tin trên thị trường mang tính khách quan được biểu hiện trên đường ngân sách là độ thỏa dụng tối ưu. Và vị trí tối ưu đó là điểm tiếp xúc giữa đường ngân sách và đường bàng quan ( điểm I)
Ảnh hưởng của hai nhân tố là thu nhập và thay thế tới sự lựa chọn của người lao động.
- Do ảnh hưởng của thu nhập : do tăng mức lương dẫn đến tăng thu nhập, người lao động có thể dùng số thu nhập tăng thêm đó để mua hàng hóa nào đó để thỏa mãn nhu cầu, ở đây là giải trí ( cũng là một loại hàng hóa ) do đó dẫn đến giảm thời gian làm việc .
- Do ảnh hưởng của thay thế : Khi mức lương tăng dẫn đến thời gian muốn làm việc tăng. Khi mức lương tăng, giá tương đối của thời gian giải trí là được thay thế, tức là làm tăng chi phí cơ hội của thời gian giải trí. Điều đó có nghĩa là khi mức lương tăng, thời gian giải trí đắt hơn, vì vậy sẽ tăng thời gian làm việc.
3. Cầu lao động và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu lao động :
Như trên đã trình bày, cầu lao động là cầu dẫn xuất, có nghĩa là lượng cầu về một loại lao động nào đó sẽ dựa trên 2 cơ sở :
- Năng suất lao động để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ.
- Giá trị thị trường của các loại hàng hóa, dịch vụ đó.
Như vậy, việc xác định cầu lao động dựa trên hiệu suất biên của lao động và giá trị ( giá cả ) của hàng hóa, dịch vụ.
3.1 Cầu lao động ngắn hạn :
Sự phát triển sản xuất có thể mô tả dưới dạng hàm sản xuất. Hàm sản xuất là mối quan hệ tương quan giữa khối lượng các đầu vào và đầu ra của sản xuất.
Các giả định :
- Quá trình sản xuất chỉ bao gồm 2 yếu tố đầu vào : vốn (K) và lao động (L).
- Chỉ có một loại lao động.
- Trong thời gian ngắn thì có ít nhất một đầu vào được cố định ( ở đây là k : máy móc thiết bị và công cụ khác ) còn trong thời gian dài thì các yếu tố đều thay đổi.
TP SR = f(L,K)
Trong đó : TP SR = tổng sản phẩm của hãng trong ngắn hạn.
Từ hàm sản xuất trong ngắn hạn ta thấy có thể thay đổi mức độ sử dụng yếu tố sản xuất của nó bằng cách chuyển từ kỹ thuật sản xuất này sang một kỹ thuật sản xuất khác. Nếu xem xét về nhu cầu lao động ta thấy khi tăng lao động đến một mức độ nào đó thì quy luật năng suất biên giảm dần bắt đầu hoạt động, Do đó, nhu cầu thuê nhân công của hãng là hãy mở rộng ( hay thu hẹp) mức thuê nhân công nếu như sản phẩm giá trị biên của lao động lớn hơn ( hay nhỏ hơn ) tiền công của người công nhân thuê thêm. Trong điều kiện lao động có thể dễ dàng điều chỉnh được thì nhu cầu về lao động của hãng phải thỏa mãn điểu kiện . Tiền công = sản phẩm giá trị biên của lao động .
Có thể biểu diễn đường cầu trên đồ thị V.3 như sau :
Giả thiết rằng quy luật năng suất biên giảm dần có hiệu lực ở mọi mức thuê nhân công. Đường sản phẩm giá trị biên của lao động (MVPL) dốc xuống. Một hãng có sức cạnh tranh có thể thuê lao động với mức tiền công không đổi là Wo bởi vì nó là người chấp nhận phương án trên thị trường lao động. Bên trái L, lợi nhuận có thể tăng do việc mở rộng thuê nhân công, bởi vì MVPL vượt quá mức tiền công, hay chi phí biên để thuê thêm nhân công. Bên phải L, có lợi hơn nếu thu hẹp việc thuê nhân công bởi vì mức tiền lương vượt quá MVPL. L là mức thuê nhân công tối đa hóa được lợi nhuận.
3.2 Cầu lao động dài hạn :
Hàm sản xuất của hãng trong dài hạn được biểu diễn như sau :
TPLK = f(L,k)
Từ việc nghiên cứu hàm sản xuất ta thấy : trong việc sản xuất một khối lượng sản phẩm nào đó bằng kỹ thuật hiện có rẻ nhất, việc tăng giá của mỗi đơn vị sức lao động so với vốn của một đơn vị vốn sẽ đưa hãng đến chỗ chuyển sang dùng kỹ thuật nhiều vốn hơn. Ngược lại nếu vốn trở nên đắt hơn thì kỹ thuật tối thiểu hóa chi phí để sản xuất ra một mức sản lượng nào đó phải dùng sức lao động nhiều hơn. Hãng thay yếu tố sản xuất mà đã trở nên tương đối đắt đỏ bằng yếu tố khác.
Mặt khác, nhu cầu về các yếu tố sản xuất phụ thuộc vào mức sản lượng và giá tương đối của chính những yếu tố sản xuất đó. Có thể minh họa ảnh hưởng của tăng tiền công đối với sản lượng ( xem hình V.4 )
Hình V.4 Hình V.5
Chi phí biên là mức tăng tổng chi phí khi sản xuất thêm một đơn vị. Doanh thu biên là mức tăng tổng doanh thu khi sản lượng tăng thêm mỗi đơn vị. Khi tất cả các nhân tố khác không thay đổi, việc giảm mức lương sẽ làm giảm giá trị biên ( từ MC1 xuống MC2 ) và làm tăng mức lợi nhuận tối đa ( MR = MC ) của sản lượng ( từ Q1 đến Q2 ). Trong trường hợp này để sản xuất thêm sản phẩm cần tuyển nhiều lao động hơn.
Việc giảm mức lương từ W1 đến W2 làm tăng tương ứng lao động trong ngắn hạn ( hình V.5) từ Q0 tới Q1. Trong dài hạn hãng thay thế lao động với vốn đưa đến có sự tác động thay thế của Q1Q2. Do đó đường cầu vẽ được do sự tác động của cả hai yếu tố bằng cách nối a và c. Đường ac là đường cầu dài hạn.
B. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY :
1. Thực trạng về cung lao động :
Như đã biết, cung về lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội tức là tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao động và cả số nhân khẩu không nằm trong độ tuổi lao động nhưng đã chính thức tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Bên cạnh đó, cung về lao động còn được xem xét từ giác độ chất lượng sức lao động , tức là các phẩm chất cá nhân người lao động. Trong đó, trình độ học vấn, trình độ đào tạo, các kỹ năng chuyên môn, kỷ luật lao động…là những yếu tố chính, quyết định chất lượng của loại hàng hóa đặc biệt này. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét yếu tố cung trên thị trường lao động Việt Nam từ những khía cạnh này.
1.1 Cung lao động xét từ giác độ số lượng :
a) Dân số và lực lượng lao động :
Theo quy định của Bộ Luật Lao Động, ở Việt Nam trong độ tuổi lao động gồm những người từ 15 đến 60 tuổi đối với nam, và từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ. Số liệu của Bộ Lao Động – Thương Binh Và Xã Hội cho thấy, đến ngày 1 tháng 7 năm 2002, dân số Việt Nam là 79.930.000 người, số người trong độ tuổi lao động là 48.485.538 người, chiếm 60.66% tổng dân số. Trong đó, số người tham gia vào lực
2.2 Ưu nhược điểm của chính sách tiền lương tại Việt Nam :
* Ưu điểm :
Đánh giá việc thực hiện chính sách tiền lương tối thiểu trong 10 năm, từ 1993 tới nay, có thể thấy những điều chúng ta đã làm được :
Một là, từng bước hoàn thiện cơ sở lý thuyết về lương tối thiểu, đã xây dựng được hệ thống khung lý thuyết tạo điều kiện cho việc xây dựng, áp dụng và quản lý lương tối thiểu ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới. Hai là, đã xây dựng được mức lương tối thiểu ngày càng khoa học qua các thời kỳ. Tiền lương tối thiểu chung, tiền lương tối thiểu theo ngành, theo vùng, lương tối thiểu cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài …Hệ thống tiền lương tối thiểu này ở chừng mực nhất định đã trở thành cơ sở cho việc hoạch định chính sách tiền lương mang đặc thù của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bước đầu làm cơ sở cho việc điều tiết quan hệ lao động trong xã hội cũng như trong tổ chức các doanh nghiệp. Ba là, hoàn thiện dần cơ chế quản lý tiền lương tối thiểu. Từ chỗ chỉ có một mức lương duy nhất, được mở rộng theo ngành, theo vùng theo khu vực, từ chỗ quy định việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu thuộc quyền của Nhà Nước đến chỗ cho phép các doanh nghiệp có thể nâng mức lương tối thiểu trong điều kiện khuôn khổ nhất định. Từ chỗ quy định mức lương tối thiểu cố định đến chỗ điều chỉnh theo sự biến động giá cả trên thị trường…..
Với kết quả như trên, từng bước phát huy vai trò của tiền lương tối thiểu như là một công cụ của Nhà Nước nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, điều tiết thu nhập giữa người lao động và người sử dụng lao động, thu hút và điều tiết nguồn nhân lực giữa các ngành, các vùng…. Đã thực hiện “tiền tệ hóa” tiền lương và loại bỏ được các khoản bao cấp, phân phối ngoài tiền lương từ ngân sách nhà nước, đây là điểm thay đổi cơ bản nhất trong cải cách chính sách tiền lương năm 1993. Lần đầu tiên mức lương tối thiểu do nhà nước công bố được áp dụng trong cả khu vực nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh, làm thay đổi nội dung và bản chất của chế độ tiền lương. Việc cho phép các doanh nghiệp nhà nước ( từ năm 1997 ) được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm ngành, theo vùng so với mức lương tối thiểu chung đã thúc đẩy các doanh nghiệp sắp xếp lại tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, tính đúng chi phí tiền lương, tiết kiệm chi phí, tăng tiền lương gắn với tăng lợi nhuận, và cũng là một bước tách tiền lương khu vực sản xuất, kinh doanh tự lo nguồn trang trải với khu vực tiền lương và trợ cấp chi từ ngân sách nhà nước.
* Khuyết điểm :
Bên cạnh những ưu điểm, thực hiện tiền lương tối thiểu còn có một số nhược điểm.
Một là, so với sức phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay có thể thấy, mức lương tối thiểu đảm bảo tái sản xuất giản đơn và một phần để tích lũy tái sản xuất mở rộng là mục tiêu khá cao nhưng thực tế đạt được còn thấp. Mặt khác, tại thời điểm thiết kế, tiền lương tối thiểu mới được xem xét chủ yếu từ khu vực Nhà nước chi từ ngân sách, chưa có sự liên kết của khu vực này với khu vực khác, những nơi thể hiện rõ sự vận hành của cơ chế thị trường, đặc biệt là quan hệ cung – cầu lao động. Vì vậy nhìn chung tác dụng của mức lương tối thiểu còn hạn chế.
Hai là, phương pháp xác định mức lương tối thiểu là kết quả bình quân của 4 cách tiếp can, nên đã “bình quân hóa” cả 3 yếu tố trong lương là giá cả sinh hoạt, nhu cầu và tập quán tiêu dùng theo vùng và chênh lệch tiền công theo vùng đã hình thành trên thị trường lao động.
Ba là, việc quy định mức lương tối thiểu chung chỉ có ý nghĩa đối với việc trả lương từ ngân sách nhà nước với việc đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, không có tác dụng trong việc hình thành đúng chi phí tiền lương trong sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào năng suất lao động và lợi nhuận của doanh nghiệp chứ không phụ thuộc vào nguồn ngân sách.
Bốn là, mức lương tối thiểu ngay từ khi mới đặt ra so với nhu cầu của người lao động, yêu cầu công việc phải đảm bảo hay năng suất lao động là không tương xứng, là quá thấp, không đủ chi cho nhu cầu thiết yếu của bản thân người lao động và tiền lương không phải là nguồn thu nhập chính. Việc quy định mức lương tối thiểu phụ thuộc vào khả năng ngân sách nhà nước, chưa tôn trọng thực tế mức tiền công đã hình thành trên thị trường và các kết quả nghiên cứu khoa học.
Năm là, việc duy trì quá lâu mức tiền lương tối thiểu được ấn định thấp (120.000 đồng/tháng từ năm 1993 đến 1996 và 144.000 đồng/tháng từ 1997 đến hết năm 1999 ) trong khi chỉ số giá sinh hoạt tăng đã làm mất tác dụng tích cực của chế độ tiền lương, phát sinh mâu thuẫn khó lý giải là trong thời gian dài nền kinh tế liên tục tăng trưởng (8-9%/năm) nhưng tiền lương thực tế lại giảm sút. Vì vậy, trong thực tế khu vực Nhà Nước không có ai xếp và hưởng mức lương tối thiểu.
Sáu là, chưa phân biệt sự khác nhau giữa tiền lương tối thiểu của các doanh nghiệp (yếu tố trong chi phí sản xuất, phân phối lần đầu phụ thuộc vào năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp) với tiền lương tối thiểu của cán bộ, công chức ( phân phối lại hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng cân đối ngân sách ) nên đã đồng nhất ( áp dụng thống nhất) mức lương tối thiểu của cán bộ, công chức với các đối tượng hưởng lương khác nhau trong quan hệ lao động theo cơ chế thị trường.
Bảy là, chưa làm rõ những căn cứ, điều kiện trong việc xây dựng và áp dụng tiền lương tối thiểu chung, vùng, ngành; mức lương tối thiểu tháng, ngày, giờ và mức lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế ( phương pháp xác định không thống nhất giữa doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
Tám là, việc điều chỉnh tăng mức tiền lương tối thiểu thường là do “ áp lực “ xã hội và vẫn bị coi là gánh nặng của ngân sách nhà nước. Hễ nói đến tăng tiền lương là nói đến cân đối ngân sách, dẫn đến duy trì mức lương tối thiểu thấp, không thực hiện đúng tiến trình cải cách đặt ra; trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội, tiền lương không được coi là là động lực phát huy hiệu quả sản xuất, tăng năng suất lao động, không gắn với hiệu quả sản xuất công việc và không kích thích người lao động gắn bó với nghề nghiệp của mình. Quan điểm “ngân sách “ bao trùm cả khu vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đã biến tiền lương thành yếu tố đơn thuần của phạm trù phân phối, tách rời các căn cứ của nó là trình độ phát triển sản xuất, năng suất lao động, các lợi thế cạnh tranh, làm cản trở tính linh hoạt của tiền lương trong cơ chế thị trường, không khuyến khích việc sử dụng và bố trí lao động hợp lý, tạo sự chia cắt thị trường lao động giữa các khu vực.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: đạo đức của cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay - thực trạng và những vấn đề nảy sinh 5
1.1. Yêu cầu đạo đức của người cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay 5
1.2. Thực trạng đạo đức của cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước và những nguyên nhân 32
Chương 2: những giải pháp cơ bản nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước hiện nay 50
2.1. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cách mạng và phát huy ý thức tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước 50
2.2. Tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ l•nh đạo, quản lý nhà nước 55
2.3. Lành mạnh hóa môi trường kinh tế - x• hội 62
Kết luận 65
Danh mục tài liệu tham khảo 67
A THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG :
1 Khái niệm :
Theo Adam Smith thị trường là không gian trao đổi trong đó người mua và người bán gặp nhau thỏa thuận trao đổi hàng hóa và dịch vụ nào đó.
Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của kinh tế thị trường và chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường : như quy luật giá trị, giá cả, cạnh tranh, độc quyền….Các quy luật này tác động và chi phối mối quan hệ cung và cầu của thị trường lao động. Vậy cung cầu là gì ?
Hình 1
Cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được. Cầu lao động được coi là cầu dẫn xuất hay là cầu gián tiếp. Bởi lẽ, xuất phát từ nhu cầu về sản phẩm mới có nhu cầu về lao động để sản xuất ra sản phẩm đó. Cầu về lao động khác với lượng cầu về lao động. Cầu về lao động mô tả toàn bộ hành vi người mua có thể mua được hàng hóa sức lao động ở mỗi mức giá hay ở tất cả các mức giá có thể đặt ra. Ở mỗi mức giá có một lượng cầu xác định.
Cầu về sức lao động có liên quan chặt chẽ với giá cả sức lao động ( tiền lương ), khi giá cả tăng ( hay giảm ) sẽ làm cho cầu về lao động giảm và ngược lại ( tức là cầu về sức lao động tỷ lệ nghịch với giá cả sức lao động). Bởi vậy, nếu vẽ trên đồ thị ( hình 1) đường cầu là đường AB. Tại mỗi điểm trên đường cầu này sẽ ứng với mỗi lượng tiền lương nhất định và số lượng sức lao động nhất định. Ví dụ tại A có mức giá là J1; số lượng sức lao động tương ứng là Q1; Tại điểm B với mức giá là J2; số lượng sức lao động tương ứng là Q2 và J1> J2 nên Q2> Q1.
Cung lao động : là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định. Cũng giống như cầu và lượng cầu. Cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thỏa thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với giá cả sức lao động, khi tiền lương tăng, lượng cung lao động sẽ tăng. Trên đồ thị hình 1 biễu diễn đường cung là CD. Tại điểm C với mức giá J3 lượng cung sức lao động là Q3. Tại điểm D với mức giá J4 lượng cung sức lao động là Q4 và do giá J4> J3 nên Q4> Q3.
Điểm cân bằng : E là điểm gặp nhau của đường cung và đường cầu. Tại đó lượng cầu bằng lượng cung ( tức Q0 ) mức giá J0 gọi là mức giá cân bằng.
2. Các nhân tố tác động tới cung lao động :
Cung trên thị trường lao động phụ thuộc vào tổng số lao động có thể cung cấp. Tổng số lao động này phụ thuộc vào quy mô dân số tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động, độ dài của thời gian làm việc và chất lượng của lực lượng lao động. Sau đây chúng ta xem xét mộ t số trong các nhân tố trên.
2.1 Sự phát triển dân số và cung lao động :
Dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân lực. Quy mô nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô dân số và quy mô dân số tại thời kỳ nào đó lại phụ thuộc vào sự tăng tự nhiên (số sinh trừ đi số chết) và tăng, giảm cơ học. Quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số nhanh sẽ báo hiệu quy mô lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh của nguồn nhân lực trong tương lai.
Cung sức lao động là bộ phận sức lao động được đưa ra trên thị trường nó phụ thuộc không chỉ vào quy mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực, nó còn phụ thuộc vào số người (tỷ lệ) tham gia của lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động được tính bằng cách so sánh lực lượng lao động thực tế với lực lượng lao động tiềm năng.
Lực lượng lao động thực tế là bộ phận dân cư trong tuổi lao động, có khả năng lao động hiện đang làm việc trong các ngành của nền kinh tế quốc dân và những người chưa có việc làm nhưng đang đi tìm việc làm.
Lực lượng lao động tiềm năng là khả năng lao động của xã hội tức là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động ( nguồn nhân lực có sẳn trong dân số hay là dân số hoạt động ) ( Labor foree participation rate LFPR).
Lực lượng lao động thực tế
LFPR = ---------------------------------- x 100
Lực lượng lao động tiềm năng
Tỷ lệ tham gia có thể được xác định tương tự cho các nhóm trong dân số khác nhau : nam, nữ, nữ có gia đình…..
Rõ ràng tỷ lệ này cao ( tiến dần đến 100%) khi lực lượng lao động trên thị trường tăng lên và khai thác được triệt để tiềm năng về nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
2.2 Cung thời gian lao động :
Quỹ thời gian của con người là có hạn, mỗi người phải lựa chọn để sử dụng quỹ thời gian đó một cách hợp lý nhất. Do nhiều nguyên nhân, mỗi người có cách lựa chọn khác nhau song thực tế có mấy loại :
- Tăng thời gian làm việc, giảm thời gian nghỉ ngơi. Đây là những người ham công việc hay có nhu cầu thu nhập cải thiện mức sống.
- Tăng thời gian nghỉ ngơi, giảm thời gian làm việc : đó là đối với người có thu nhập cao hay do tuổi cao.
- Lựa chọn thời gian làm việc và nghỉ ngơi hợp lý vừa đảm bảo thu nhập, vừa thỏa mãn được nhu cầu vui chơi, giải trí.
Thứ hai, nhân tố khách quan đó là giới hạn thu nhập trên thị trường lao động.
Ta xét nhân tố chủ quan : sở thích của cá nhân. Một điều hết sức rõ là xem xét mối quan hệ giữa thu nhập, thời gian làm việc và giải trí ta thấy : thu nhập tỷ lệ thuận với thời gian làm việc và tỷ lệ nghịch với thời gian giải trí. Để mô tả mối quan hệ giữa thu nhập và thời gian giải trí, người ta dùng khái niệm đường bàng quan. Đường bàng quan thể hiện những kết hợp khác nhau của thu nhập thực tế và thời gian giải trí mà nó đưa lại cho cá nhân người lao động ( đường S trên đồ thị hình 2 ) . Với một điểm bất kỳ trên đường bàng quan thể hiện một cách kết hợp giữa thu nhập và giải trí tức là đạt được độ thỏa dụng nhất định. Tất cả mọi điểm trên đường bàng quan đều có độ thỏa dụng như nhau.
Hình 2
Ta xét nhân tố khách quan : sự ràng buộc về khả năng thu nhập trên thị trường lao động. Bản thân mỗi người chịu sự giới hạn bởi lượng tiền mà anh ta có và tiền lương trên thị trường là cho trước và không thay đổi. Để mô tả khả năng này người ta dùng đường ngân sách. Đường ngân sách thể hiện khả năng thu nhập của người lao động trong mối quan hệ với thời gian làm việc và nghỉ ngơi ( chúng ta giả định rằng người lao động chỉ có thất nghiệp duy nhất từ thị trường lao động. Trên đồ thị hình 2, đường N là đường ngân sách.
Sự kết hợp tối ưu giữa ưa thích cá nhân ( chủ quan ) được biểu hiện trên đường bàng quan với các thông tin trên thị trường mang tính khách quan được biểu hiện trên đường ngân sách là độ thỏa dụng tối ưu. Và vị trí tối ưu đó là điểm tiếp xúc giữa đường ngân sách và đường bàng quan ( điểm I)
Ảnh hưởng của hai nhân tố là thu nhập và thay thế tới sự lựa chọn của người lao động.
- Do ảnh hưởng của thu nhập : do tăng mức lương dẫn đến tăng thu nhập, người lao động có thể dùng số thu nhập tăng thêm đó để mua hàng hóa nào đó để thỏa mãn nhu cầu, ở đây là giải trí ( cũng là một loại hàng hóa ) do đó dẫn đến giảm thời gian làm việc .
- Do ảnh hưởng của thay thế : Khi mức lương tăng dẫn đến thời gian muốn làm việc tăng. Khi mức lương tăng, giá tương đối của thời gian giải trí là được thay thế, tức là làm tăng chi phí cơ hội của thời gian giải trí. Điều đó có nghĩa là khi mức lương tăng, thời gian giải trí đắt hơn, vì vậy sẽ tăng thời gian làm việc.
3. Cầu lao động và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu lao động :
Như trên đã trình bày, cầu lao động là cầu dẫn xuất, có nghĩa là lượng cầu về một loại lao động nào đó sẽ dựa trên 2 cơ sở :
- Năng suất lao động để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ.
- Giá trị thị trường của các loại hàng hóa, dịch vụ đó.
Như vậy, việc xác định cầu lao động dựa trên hiệu suất biên của lao động và giá trị ( giá cả ) của hàng hóa, dịch vụ.
3.1 Cầu lao động ngắn hạn :
Sự phát triển sản xuất có thể mô tả dưới dạng hàm sản xuất. Hàm sản xuất là mối quan hệ tương quan giữa khối lượng các đầu vào và đầu ra của sản xuất.
Các giả định :
- Quá trình sản xuất chỉ bao gồm 2 yếu tố đầu vào : vốn (K) và lao động (L).
- Chỉ có một loại lao động.
- Trong thời gian ngắn thì có ít nhất một đầu vào được cố định ( ở đây là k : máy móc thiết bị và công cụ khác ) còn trong thời gian dài thì các yếu tố đều thay đổi.
TP SR = f(L,K)
Trong đó : TP SR = tổng sản phẩm của hãng trong ngắn hạn.
Từ hàm sản xuất trong ngắn hạn ta thấy có thể thay đổi mức độ sử dụng yếu tố sản xuất của nó bằng cách chuyển từ kỹ thuật sản xuất này sang một kỹ thuật sản xuất khác. Nếu xem xét về nhu cầu lao động ta thấy khi tăng lao động đến một mức độ nào đó thì quy luật năng suất biên giảm dần bắt đầu hoạt động, Do đó, nhu cầu thuê nhân công của hãng là hãy mở rộng ( hay thu hẹp) mức thuê nhân công nếu như sản phẩm giá trị biên của lao động lớn hơn ( hay nhỏ hơn ) tiền công của người công nhân thuê thêm. Trong điều kiện lao động có thể dễ dàng điều chỉnh được thì nhu cầu về lao động của hãng phải thỏa mãn điểu kiện . Tiền công = sản phẩm giá trị biên của lao động .
Có thể biểu diễn đường cầu trên đồ thị V.3 như sau :
Giả thiết rằng quy luật năng suất biên giảm dần có hiệu lực ở mọi mức thuê nhân công. Đường sản phẩm giá trị biên của lao động (MVPL) dốc xuống. Một hãng có sức cạnh tranh có thể thuê lao động với mức tiền công không đổi là Wo bởi vì nó là người chấp nhận phương án trên thị trường lao động. Bên trái L, lợi nhuận có thể tăng do việc mở rộng thuê nhân công, bởi vì MVPL vượt quá mức tiền công, hay chi phí biên để thuê thêm nhân công. Bên phải L, có lợi hơn nếu thu hẹp việc thuê nhân công bởi vì mức tiền lương vượt quá MVPL. L là mức thuê nhân công tối đa hóa được lợi nhuận.
3.2 Cầu lao động dài hạn :
Hàm sản xuất của hãng trong dài hạn được biểu diễn như sau :
TPLK = f(L,k)
Từ việc nghiên cứu hàm sản xuất ta thấy : trong việc sản xuất một khối lượng sản phẩm nào đó bằng kỹ thuật hiện có rẻ nhất, việc tăng giá của mỗi đơn vị sức lao động so với vốn của một đơn vị vốn sẽ đưa hãng đến chỗ chuyển sang dùng kỹ thuật nhiều vốn hơn. Ngược lại nếu vốn trở nên đắt hơn thì kỹ thuật tối thiểu hóa chi phí để sản xuất ra một mức sản lượng nào đó phải dùng sức lao động nhiều hơn. Hãng thay yếu tố sản xuất mà đã trở nên tương đối đắt đỏ bằng yếu tố khác.
Mặt khác, nhu cầu về các yếu tố sản xuất phụ thuộc vào mức sản lượng và giá tương đối của chính những yếu tố sản xuất đó. Có thể minh họa ảnh hưởng của tăng tiền công đối với sản lượng ( xem hình V.4 )
Hình V.4 Hình V.5
Chi phí biên là mức tăng tổng chi phí khi sản xuất thêm một đơn vị. Doanh thu biên là mức tăng tổng doanh thu khi sản lượng tăng thêm mỗi đơn vị. Khi tất cả các nhân tố khác không thay đổi, việc giảm mức lương sẽ làm giảm giá trị biên ( từ MC1 xuống MC2 ) và làm tăng mức lợi nhuận tối đa ( MR = MC ) của sản lượng ( từ Q1 đến Q2 ). Trong trường hợp này để sản xuất thêm sản phẩm cần tuyển nhiều lao động hơn.
Việc giảm mức lương từ W1 đến W2 làm tăng tương ứng lao động trong ngắn hạn ( hình V.5) từ Q0 tới Q1. Trong dài hạn hãng thay thế lao động với vốn đưa đến có sự tác động thay thế của Q1Q2. Do đó đường cầu vẽ được do sự tác động của cả hai yếu tố bằng cách nối a và c. Đường ac là đường cầu dài hạn.
B. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY :
1. Thực trạng về cung lao động :
Như đã biết, cung về lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội tức là tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao động và cả số nhân khẩu không nằm trong độ tuổi lao động nhưng đã chính thức tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Bên cạnh đó, cung về lao động còn được xem xét từ giác độ chất lượng sức lao động , tức là các phẩm chất cá nhân người lao động. Trong đó, trình độ học vấn, trình độ đào tạo, các kỹ năng chuyên môn, kỷ luật lao động…là những yếu tố chính, quyết định chất lượng của loại hàng hóa đặc biệt này. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét yếu tố cung trên thị trường lao động Việt Nam từ những khía cạnh này.
1.1 Cung lao động xét từ giác độ số lượng :
a) Dân số và lực lượng lao động :
Theo quy định của Bộ Luật Lao Động, ở Việt Nam trong độ tuổi lao động gồm những người từ 15 đến 60 tuổi đối với nam, và từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ. Số liệu của Bộ Lao Động – Thương Binh Và Xã Hội cho thấy, đến ngày 1 tháng 7 năm 2002, dân số Việt Nam là 79.930.000 người, số người trong độ tuổi lao động là 48.485.538 người, chiếm 60.66% tổng dân số. Trong đó, số người tham gia vào lực
2.2 Ưu nhược điểm của chính sách tiền lương tại Việt Nam :
* Ưu điểm :
Đánh giá việc thực hiện chính sách tiền lương tối thiểu trong 10 năm, từ 1993 tới nay, có thể thấy những điều chúng ta đã làm được :
Một là, từng bước hoàn thiện cơ sở lý thuyết về lương tối thiểu, đã xây dựng được hệ thống khung lý thuyết tạo điều kiện cho việc xây dựng, áp dụng và quản lý lương tối thiểu ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới. Hai là, đã xây dựng được mức lương tối thiểu ngày càng khoa học qua các thời kỳ. Tiền lương tối thiểu chung, tiền lương tối thiểu theo ngành, theo vùng, lương tối thiểu cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài …Hệ thống tiền lương tối thiểu này ở chừng mực nhất định đã trở thành cơ sở cho việc hoạch định chính sách tiền lương mang đặc thù của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bước đầu làm cơ sở cho việc điều tiết quan hệ lao động trong xã hội cũng như trong tổ chức các doanh nghiệp. Ba là, hoàn thiện dần cơ chế quản lý tiền lương tối thiểu. Từ chỗ chỉ có một mức lương duy nhất, được mở rộng theo ngành, theo vùng theo khu vực, từ chỗ quy định việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu thuộc quyền của Nhà Nước đến chỗ cho phép các doanh nghiệp có thể nâng mức lương tối thiểu trong điều kiện khuôn khổ nhất định. Từ chỗ quy định mức lương tối thiểu cố định đến chỗ điều chỉnh theo sự biến động giá cả trên thị trường…..
Với kết quả như trên, từng bước phát huy vai trò của tiền lương tối thiểu như là một công cụ của Nhà Nước nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, điều tiết thu nhập giữa người lao động và người sử dụng lao động, thu hút và điều tiết nguồn nhân lực giữa các ngành, các vùng…. Đã thực hiện “tiền tệ hóa” tiền lương và loại bỏ được các khoản bao cấp, phân phối ngoài tiền lương từ ngân sách nhà nước, đây là điểm thay đổi cơ bản nhất trong cải cách chính sách tiền lương năm 1993. Lần đầu tiên mức lương tối thiểu do nhà nước công bố được áp dụng trong cả khu vực nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh, làm thay đổi nội dung và bản chất của chế độ tiền lương. Việc cho phép các doanh nghiệp nhà nước ( từ năm 1997 ) được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm ngành, theo vùng so với mức lương tối thiểu chung đã thúc đẩy các doanh nghiệp sắp xếp lại tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, tính đúng chi phí tiền lương, tiết kiệm chi phí, tăng tiền lương gắn với tăng lợi nhuận, và cũng là một bước tách tiền lương khu vực sản xuất, kinh doanh tự lo nguồn trang trải với khu vực tiền lương và trợ cấp chi từ ngân sách nhà nước.
* Khuyết điểm :
Bên cạnh những ưu điểm, thực hiện tiền lương tối thiểu còn có một số nhược điểm.
Một là, so với sức phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay có thể thấy, mức lương tối thiểu đảm bảo tái sản xuất giản đơn và một phần để tích lũy tái sản xuất mở rộng là mục tiêu khá cao nhưng thực tế đạt được còn thấp. Mặt khác, tại thời điểm thiết kế, tiền lương tối thiểu mới được xem xét chủ yếu từ khu vực Nhà nước chi từ ngân sách, chưa có sự liên kết của khu vực này với khu vực khác, những nơi thể hiện rõ sự vận hành của cơ chế thị trường, đặc biệt là quan hệ cung – cầu lao động. Vì vậy nhìn chung tác dụng của mức lương tối thiểu còn hạn chế.
Hai là, phương pháp xác định mức lương tối thiểu là kết quả bình quân của 4 cách tiếp can, nên đã “bình quân hóa” cả 3 yếu tố trong lương là giá cả sinh hoạt, nhu cầu và tập quán tiêu dùng theo vùng và chênh lệch tiền công theo vùng đã hình thành trên thị trường lao động.
Ba là, việc quy định mức lương tối thiểu chung chỉ có ý nghĩa đối với việc trả lương từ ngân sách nhà nước với việc đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, không có tác dụng trong việc hình thành đúng chi phí tiền lương trong sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào năng suất lao động và lợi nhuận của doanh nghiệp chứ không phụ thuộc vào nguồn ngân sách.
Bốn là, mức lương tối thiểu ngay từ khi mới đặt ra so với nhu cầu của người lao động, yêu cầu công việc phải đảm bảo hay năng suất lao động là không tương xứng, là quá thấp, không đủ chi cho nhu cầu thiết yếu của bản thân người lao động và tiền lương không phải là nguồn thu nhập chính. Việc quy định mức lương tối thiểu phụ thuộc vào khả năng ngân sách nhà nước, chưa tôn trọng thực tế mức tiền công đã hình thành trên thị trường và các kết quả nghiên cứu khoa học.
Năm là, việc duy trì quá lâu mức tiền lương tối thiểu được ấn định thấp (120.000 đồng/tháng từ năm 1993 đến 1996 và 144.000 đồng/tháng từ 1997 đến hết năm 1999 ) trong khi chỉ số giá sinh hoạt tăng đã làm mất tác dụng tích cực của chế độ tiền lương, phát sinh mâu thuẫn khó lý giải là trong thời gian dài nền kinh tế liên tục tăng trưởng (8-9%/năm) nhưng tiền lương thực tế lại giảm sút. Vì vậy, trong thực tế khu vực Nhà Nước không có ai xếp và hưởng mức lương tối thiểu.
Sáu là, chưa phân biệt sự khác nhau giữa tiền lương tối thiểu của các doanh nghiệp (yếu tố trong chi phí sản xuất, phân phối lần đầu phụ thuộc vào năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp) với tiền lương tối thiểu của cán bộ, công chức ( phân phối lại hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng cân đối ngân sách ) nên đã đồng nhất ( áp dụng thống nhất) mức lương tối thiểu của cán bộ, công chức với các đối tượng hưởng lương khác nhau trong quan hệ lao động theo cơ chế thị trường.
Bảy là, chưa làm rõ những căn cứ, điều kiện trong việc xây dựng và áp dụng tiền lương tối thiểu chung, vùng, ngành; mức lương tối thiểu tháng, ngày, giờ và mức lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế ( phương pháp xác định không thống nhất giữa doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
Tám là, việc điều chỉnh tăng mức tiền lương tối thiểu thường là do “ áp lực “ xã hội và vẫn bị coi là gánh nặng của ngân sách nhà nước. Hễ nói đến tăng tiền lương là nói đến cân đối ngân sách, dẫn đến duy trì mức lương tối thiểu thấp, không thực hiện đúng tiến trình cải cách đặt ra; trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội, tiền lương không được coi là là động lực phát huy hiệu quả sản xuất, tăng năng suất lao động, không gắn với hiệu quả sản xuất công việc và không kích thích người lao động gắn bó với nghề nghiệp của mình. Quan điểm “ngân sách “ bao trùm cả khu vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đã biến tiền lương thành yếu tố đơn thuần của phạm trù phân phối, tách rời các căn cứ của nó là trình độ phát triển sản xuất, năng suất lao động, các lợi thế cạnh tranh, làm cản trở tính linh hoạt của tiền lương trong cơ chế thị trường, không khuyến khích việc sử dụng và bố trí lao động hợp lý, tạo sự chia cắt thị trường lao động giữa các khu vực.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: