huynhtrongnghia79
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết mục đích cơ bản của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là tạo ra lợi nhuận và mục đích cuối cùng cũng là lợi nhuận. Ngày nay, doanh nghiệp hoàn toàn có thể tiếp cận và khai thác các chức năng nổi trội trong “nền kinh tế internet” để tối đa hóa lợi nhuận.
Trong bất cứ một hình thức tổ chức kinh tế nào , trong hình thái kinh tế xã hội nào thì các doanh nghiệp cũng luôn quan tâm tới vấn đề năng suất -chất lượng - hiệu quả đó chính là những tiêu chí hàng đầu trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Nó chính là thước đo trình độ phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung . Song tất cả đều thực hiện mục tiêu sâu xa của doanh nghiệp đó là thu lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận . Lợi nhuận là mục đích của sản xuất kinh doanh , là động cơ chủ yếu của các nhà đầu tư vì vậy lợi nhuận là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thực sự hiệu quả hay không.
Một nền kinh tế vững mạnh là một nền kinh tế trong đó các tế bào của nó là các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Những năm trước đây nền kinh tế của nước ta còn ở trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp các đơn vị sản xuất đã không chủ động khai thác hết khả năng và tiềm tàng sẵn có của mình do hình thành thói quen tâm lý ỷ lại, dựa dẫm vào sự bao cấp của nhà nước cho nên mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không những không mang lại hiệu quả mà còn làm cho nền kinh tế ngày một kém phát triển và tụt hậu rất nhiều so với các nước trên khu vực và trong thế giới.
Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước thì nền kinh tế của nước ta mới thực sự khởi sắc. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là có sự cạnh tranh mạnh mẽ, chính điều đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải độc lập tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và quá trình đó đã mang lại hiệu quả tức là mang lại lợi nhuận . Kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao là mục đích của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường . Đối với các doanh nghiệp lợi nhuận chính là đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất ,kích thích mạnh mẽ đến mọi hoạt động của sản xuất kinh doanh.
Phấn đấu có lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận là mối quan tâm hàng đấu của các đơn vị sản xuất kinh doanh, nó có tính chất quyết định tới sự sống còn và phát triển của mọi doanh nghiệp, vì vậy mà việc tìm hiểu nguồn gốc, những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận, xây dựng mô hình lợi nhuận và tìm ra định hướng giải pháp giúp tăng lợi nhuận của công ty là một điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Bằng những kiến thức đã được học về kinh tế lượng và phương pháp mô tả thống kê , cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Cao Xuân Hoà, cô Vũ Thị Bích Ngọc cùng toàn thể cán bộ phòng tài chính-kế toán công ty Maxvitra em xin mạnh dạn đề xuất đề tài :
“ Xây dựng mô hình lợi nhuận tại công ty Maxvitra”
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý thuyết căn bản về lợi nhuận trong doanh nghiệp
Chương 2: Xây dựng mô hình lợi nhuận tại công ty Maxvitra
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại công ty Maxvitra
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ THUYẾT CĂN BẢN VỀ LỢI NHUẬN
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.Khái niệm về lợi nhuận
1.1.1.Định nghĩa:
Lợi nhuận của doanh nghiệp là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp được xác định sau một thời kỳ nhất định được thể hiện bằng khoản tiền thu về gọi chung là doanh thu.
Khoản doanh thu có được này trước hết phải bù đắp được các chi phí sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Những chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó là :
- Các khoản chi cho nghĩa vụ đối với nhà nước của doanh nghiệp: thuế, Các khoản nộp cho ngân sách nhà nước.
- Các khoản chi cho vật chất đã bị tiêu hao trong quá trình sản xuất.
- Các khoản chi cho người lao động.
Doanh thu có được sau khi đã bù đắp hết khoản chi phí nói trên thì phần doanh thu giá trị còn lại chính là phần lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận gồm:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: là chênh lệch giữa doanh thu của hoạt kinh doanh trừ đi chi phí kinh doanh.
- Lợi nhuận của hoạt động khác: gồm lợi nhuận từ hoạt động tài chính, lợi nhuận từ hoạt động bất thường
1.1.2. Ý nghĩa của lợi nhuận
Lợi nhuận là mục đích của sản xuất kinh doanh, là động cơ chủ yếu của các nhà đầu tư vì vậy lợi nhuận được coi là một tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh không kể trong bất cứ lĩnh vực nào, hay thành phần kinh tế nào, khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều có chung một mục đích là tìm kiếm lợi nhuận. Chỉ khi nào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp mới thu được lợi nhuận . Như vậy lợi nhuận phản ánh hiệu quả và mục đích hoạt động của mỗi doanh nghiệp .Từ đó không có lợi nhuận hay lợi nhuận không cao cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả không đạt được mục tiêu kinh doanh của mình.
Trên phương diện tài chính thì lợi nhuận là một nguồn tài chính bù đắp cho những thiệt hại , rủi ro trong kinh doanh. Nó là nguồn tài chính bên trong vững chắc để bổ sung vốn mở rộng quy mô của sản xuất thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, là nguồn tài chính để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với nhà nước và nâng cao thu nhập cho người lao động, thoả mãn lợi ích của các nhà đầu tư.
Ý nghĩa của lợi nhuận đối với các chủ thể trong nền kinh tế:
Đảm bảo mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
- Dành phần lợi nhuận thích đáng để mở rộng sản xuất, chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên đơn vị.
Nội dung cơ bản của phân phối lợi nhuận doanh nghiệp tùy thuộc vào đặc điểm sở hữu của từng loại hình doanh nghiệp. Về cơ bản các doanh nghiệp đều giống nhau ở chỗ là có nghĩa vụ với Nhà nước như nộp thuế, phí, lệ phí và các khoản đóng góp nghĩa vụ khác. Phần lợi nhuận sau thuế sẽ được phân phối tùy từng loại hình doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, lợi nhuận sau thuế về cơ bản được phân phối như sau:
- Bù các khoản lỗ năm trước không được trừ lợi nhuận trước thuế.
- Trả các khoản tiền bị phạt do vi phạm kỹ luật thu nộp Ngân sách, vi phạm các hợp đồng, do nợ quá hạn…
- Trừ các chi phí bất hợp lý chưa được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (nếu có). Phần lợi nhuận còn lại dùng để trích lập các quỹ của doanh nghiệp như:
+ Trích quỹ dự phòng tài chính;
+ Trích quỹ đầu tư phát triển;
+ Trích quỹ đặc biệt (các ngành đặc thù như bảo hiểm, ngân hàng thương mại);
+ Chia lãi cổ phần (nếu có);
+ Trích quỹ khen thưởng, phúc lợi.
1.1.3.Hạn chế
Lợi nhuận đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với từng doanh nghiệp cụ thể mà đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, song không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bởi vì:
- Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng , nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. Do đó khi xem xét kết quả kinh doanh ta không chỉ đơn thuần sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận.
- Lợi nhuận doanh nghiệp qua mỗi kỳ là khác nhau do điều kiện sản xuất kinh doanh , điều kiện vận chuyển, điều kiện thị trường tiêu thụ.
- Lợi nhuận ở mỗi doanh nghiệp cùng loại là khác nhau bởi mỗi doanh nghiệp có quy mô sản xuất khác nhau ,thực tế có những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn so với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng có chất lượng quản lý tốt.
1.1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá mức sinh lời của doanh nghiệp khác
Lâu nay khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta hay sử dụng chỉ tiêu ROA(return on assets) và chỉ tiêu ROE( return on equity), không thể phủ nhận tính hữu ích của hai chỉ tiêu này bên cạnh đó thì hai chỉ tiêu này còn có những mặt hạn chế nhất định.
Chỉ tiêu ROA
Khi tính toán chỉ tiêu ROA, thì thông thường các nhà phân tích sử dụng một trong hai nguồn số liệu lấy từ báo cáo thu nhập của doanh nghiệp, đó là: Lợi nhuận hoạt động trước thuế và lãi vay (EBIT) hay Lợi nhuận sau thuế, cụ thể:
ROA = EBIT
Tổng tài sản bình quân
Hoặc:
ROA = Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân
Trong hai cách tính này, ta thấy cách tính ROA theo EBIT thì sẽ phản ánh tốt hơn nội hàm của thuật ngữ “sức sinh lợi trên tổng tài sản” (Return on Assets) bởi vì EBIT là toàn bộ kết quả mà doanh nghiệp sử dụng toàn bộ tài sản của mình để tạo ra, không phân biệt đối tượng được hưởng kết quả này là ai: chủ doanh nghiệp, ngân hàng cho vay hay Nhà nước (thông qua thuế).
Tuy nhiên, ở cả hai cách tính này vẫn hàm chứa một số rủi ro nếu được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác nhau. Như ta đã biết, tổng tài sản bình quân được tính toán dựa trên chỉ tiêu tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, số liệu này được cấu thành bởi khá nhiều bộ phận, trong đó có những bộ phận sẽ thay đổi một cách nhanh chóng trong vòng một vài ngày, nghĩa là vào ngày chốt sổ kế toán để tiến hành lập báo cáo tài chính (chẳng hạn là 31/12/N) và ngay sau đó, tức là vào tháng 1/N+1, tổng tài sản của doanh nghiệp là khác nhau, ví dụ như: các khoản mục hàng tồn kho, phải thu, phải trả. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến chỉ tiêu ROA dù tính theo bất kỳ cách nào như trên.
Chỉ tiêu ROE
Chỉ tiêu ROE được sử dụng khá nhất quán trong phân tích khi sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân.
ROE = Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
Tuy nhiên, chỉ tiêu này của các doanh nghiệp ở Việt Nam thời gian qua có sự biến động lớn do hoạt động tăng vốn. Khi tốc độ tăng vốn chủ sở hữu cao hơn tốc độ tăng lợi nhuận sau thuế thì có nghĩa là ROE sẽ giảm sút so với trước khi tăng vốn. Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp chỉ nên tăng vốn khi hiệu suất sử dụng vốn hiện đang rất cao, thêm vào đó là đòn bẩy tài chính đã sử dụng hết “công suất”. Nhưng thực tế ở Việt Nam thời gian vừa qua, có nhiều doanh nghiệp tiến hành tăng vốn để giảm vốn vay ngân hàng, hay để tiến hành đầu tư tài chính.
Chỉ tiêu ROC
Do ROA và ROE có những hạn chế nhất định khi áp dụng phân tích các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, nên có thể trình bày một chỉ tiêu khác để có thể nhìn nhận một cách toàn diện hơn năng lực sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu ROC (Return on Capital) cũng được nhiều tài liệu đề cập đến, tuy nhiên, ở đây xin trình bày một cách tính ROC khá phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
ROC = EBIT
Vốn kinh doanh bình quân
Trong đó:
• Vốn kinh doanh bình quân = Vốn vay bình quân + Vốn chủ sở hữu bình quân
• Vốn vay bình quân = Tổng số tiền lãi vay trong kỳ/Lãi suất bình quân của khoản tiền vay trong kỳ.
• Vốn chủ sở hữu bình quân: xác định dựa trên những thời điểm tăng/giảm vốn chủ sở hữu trong kỳ.
Với việc sử dụng chỉ tiêu ROC ở trên, ta có thể thu được kết quả phản ánh hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tử số thể hiện kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà không phân biệt đối tượng nào được hưởng, mẫu số thể hiện tổng nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ, không phân biệt vốn vay hay vốn chủ sở hữu.
Như vậy để tính toán được một trong các chỉ tiêu ở trên thì ta cần tính được lợi nhuận trước thuế hay sau thuế
1.2.Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp
Để tăng lợi nhuận, doanh nghiệp phải tăng doanh thu, đồng thời cắt giảm chi phí họat động. Doanh nghiệp có thể cắt giảm một loạt các chi phí như: chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm; chi phí quảng cáo; chi phí duy tu, bảo dưỡng thiết bị…. Song, các chi phí này có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của công ty, nếu doanh nghiệp áp dụng giải pháp này sẽ làm mất đi các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.
Thông thường , có 4 sự chọn lựa để tăng lợi nhuận tương ứng với 4 thời kỳ phát triển của lịch sử nhân lọai: thời kỳ sơ khai, thời kỳ phát triển của khoa học kỹ thuật, thời kỳ bùng nổ của ngành viễn thông và thời kỳ ra đời của thương mại điện tử. Trong thời kỳ sơ khai, một doanh nghiệp muốn tăng lợi nhuận phải tăng doanh thu, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải thường xuyên tăng lượng khách hàng hay tăng giá bán trên từng đơn vị sản phẩm. Để tăng lượng khách hàng thì phải tăng lượng cung ứng, đồng bộ hóa các yếu tố khác: nhân sự, quy mô kinh doanh, trong khi vẫn không giải quyết được các rào cản về không gian và thời gian. Mặt khác, những biến động của giá cả sản phẩm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mất dần khách hàng do tác động trực tiếp đến lợi ích của người mua, từ đó ảnh hưởng đến các mục tiêu kinh doanh ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp. Không ít doanh nghiệp lại lựa chọn biện pháp giảm dần chất lượng sản phẩm để tăng lợi nhuận. Họ đã đánh đổi lợi ích trước mắt cho những tổn hại lâu dài.
Khi khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, các doanh nghiệp đã có được một sự lựa chọn mới nhằm tối ưu hóa lợi nhuận. Việc áp dụng các giải pháp công nghệ cho phép cải tiến, đa dạng hóa sản phẩm hàng lọat, khép kín quy trình sản xuất, làm cho sản phẩm có chức năng mạnh hơn, lợi ích tốt hơn, tiết giảm đáng kể chi phí sản xuất. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi mức đầu tư chi phí hạ tầng cao, có sẵn nguồn nhân lực để bảo quản, duy trì máy móc họat động thường xuyên, liên tục.
Đến thời kỳ bùng nổ của ngành viễn thông, lượng thông tin trao đổi tăng đột biến. Khi đó, doanh nghiệp có thể đa dạng hóa nguồn lựa chọn, sản phẩm bán chạy do truyền thông tốt. Người ta bắt đầu quan tâm đến việc phát triển thương hiệu, một tài sản “vô hình” của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng từ đó, chi phí quảng bá thương hiệu đã gia tăng nhanh chóng, có doanh nghiệp đã dùng đến 70% tổng chi phí vào các chiến dịch Marketing và quảng bá. Nhìn chung, các giải pháp này đều có ưu điểm và nhược điểm riêng.
Thời kỳ ra đời của thương mại điện tử, có nghĩa là doanh nghiệp đã bước sang giai đọan “nền kinh tế internet”. Thương mại điện tử mà cốt lõi của nó là hoạt động trên nền tảng của internet đã đa dạng hóa cách hướng đến các mục tiêu lợi nhuân. Internet đã tạo ra cái chợ vô hình với không gian quảng cáo và cơ hội mua bán thuận tiện, nhanh hơn rất nhiều so với kiểu mua bán, giao thương truyền thống. Việc tham gia vào các họat động thương mại điện tử cho phép doanh nghiệp xây dựng hình ảnh công ty, tiếp cận lượng khách hàng vô tận, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và xuất khẩu, mở rộng thị trường mà không cần tăng quy mô kinh doanh. Môt trong nhưng ưu việt của thương mại điện tử còn là tối ưu hóa chi phí quản lý, kinh doanh. Kết nối đúng nhu cầu người mua và người bán, bỏ qua khâu trung gian sẽ giúp doanh nghiệp có giá cả cạnh tranh để duy trì và mở rộng khách hàng của mình.
Ngoài ra thì doanh nghiệp còn có thể áp dụng thêm một số biện pháp sau:
1.2.1. Hạ giá thành sản phẩm
Hạ thấp giá thành sản phẩm là phương hướng cơ bản để tăng thêm lợi nhuận cho các doanh nghiệp .Hạ thấp giá thành sản phẩm thực chất là giảm chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm, tức là tiết kiệm về chi phí lao công, chi phí quản lý. Điều này có ý nghĩa kinh tế to lớn không riêng đối với doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa trong phạm vi toàn xã hội.
Hạ thấp giá thành sản phẩm là tăng lợi nhuận mà không tăng chi phí , do đó không chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được vốn để mở rộng được quy mô sản xuất góp phần tiết kiệm chi phí cho toàn xã hội . Để hạ thấp giá thành sản phẩm góp phần gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp nên làm những việc sau đây:
Phấn đấu tăng năng suất lao động :
Tăng năng suất lao động là tổng hợp nhiều biện pháp để tăng năng lực sản xuất của người lao động, sao cho số sản phẩm sản xuất ra trong cùng một đơn vị tăng lên,hay giảm bớt thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Muốn vậy thì doanh nghiệp nên:
- Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị ,phục vụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến tạo tiền đề làm thay đổi căn bản điều kiện sản xuất , cho phép sử dụng triệt để công suất máy móc thiết bị. Đây là biện pháp trực tiếp làm tăng năng suất lao động.
- Tăng cường công tác quản lý sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động .Thực tế có những doanh nghiệp sản xuất chưa tận dụng triệt để công suất thiết kế của máy móc ,thiết bị. Tận dụng được hết công suất có thể làm số tiền khấu hao tăng lên nhưng số sản phẩm được tạo ra cũng nhiều hơn nên số tiền khấu hao tính trên một đơn vị sản phẩm lại giảm đi ,do đó làm giảm giá thành và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Tổ chức quản lý sử dụng lao động hợp lý, chú trọng nâng cao trình độ tay nghề và ý thức trách nhiệm của người lao động
Tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao
Tiết kiệm được nguyên vật liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất cũng góp phần to lớn vào việc giảm chi phí, chi phí cho nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành của sản phẩm , giảm được tỷ lệ tiêu hao này sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng lợi nhuận cho công ty.
1.2.2.Tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ
Thông thường sản phẩm sản xuất ra càng nhiều , chất lượng cao đẩy mạnh được việc tiêu thụ thì lợi nhuận doanh nghiệp ngày càng lớn . Chính vì vậy tăng số lượng sản phẩm sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh công tác tiêu thụ là một biện pháp quan trọng để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp . Đối với những doanh nghiệp làm được điều trên chủ yếu phục thuộc vào trình độ trang bị kỹ thuật của máy móc thiết bị,phục thuộc vào tay nghề người lao động và trình độ quản lý sản xuất và khả năng nắm bắt thông tin thị trường của doanh nghiệp.
Tiêu thụ là khâu cuối cùng của sản xuất ,là khâu quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ thì chỉ khi nào sản phẩm được tiêu thụ hết thì doanh nghiệp mới có cơ sở để đảm bảo quá trình tái sản xuất cũng như thu được lợi nhuận. Vì vậy đẩy mạnh tiêu thụ đòi hỏi các doanh nghiệp cần có một sự đầu tư lớn cả về vật chất cũng như thời gian.
1.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh không phải là một hoạt động đơn thuần về mặt thu chi tài chính mà thực chất là một nghệ thuật sử dụng vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh . Sử dụng vốn có hiệu quả tức là lợi nhuận thu về trên một đồng vốn bỏ vào sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều . Do đó mà việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là biện pháp cơ bản được các doanh nghiệp quan tâm.
Vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm có vốn cố định và vốn lưu động:
Vốn cố định
Vốn cố định của các doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nói riêng và vốn sản xuất nói chung. Quy mô của VCĐ có ảnh hưởng lớn trực tiếp quyết định đến trình độ trang máy móc thiết bị kỹ thuật , công nghệ và năng lực của sản xuất kinh doanh . Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định được coi là trọng điểm của công tác quản lý tài chính trong doanh nghiệp.
Vốn lưu động
Vốn lưu động là số vốn ứng trước để đầu tư mua máy móc thiết bị , nó gồm: vật tư, thành phẩm, tiền vốn. Tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng cao càng chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức công việc: dự trữ sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp là hợp lý hay không hợp lý , các khoản phí tổn trong quá trình sản xuất kinh doanh tiết kiệm hay không tiết kiệm và có hiệu quả . Vốn lưu động góp phần hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hiện nay các doanh nghiệp còn có một số các thủ thuật làm tăng lợi nhuận đó là:
Thứ nhất, DN có thể tăng doanh thu và lợi nhuận thông qua việc thực hiện giao dịch vào cuối kỳ kế toán với khách hàng mà không yêu cầu khách hàng thanh toán ngay (do được chiếm dụng vốn nên họ sẵn sàng chấp nhận).
Giao dịch này được thừa nhận như là bán hàng trả chậm, chứ không phải là bán hàng qua đại lý và nghiễm nhiên làm tăng doanh số và lợi nhuận của DN trong kỳ. Thủ thuật này thực tế là việc chuyển doanh thu và lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ báo cáo.
Thứ hai, DN sử dụng chính sách giá buộc khách hàng tự nguyện tăng doanh số trong kỳ bằng việc thông báo sẽ tăng giá vào đầu năm tài chính năm sau. Khách hàng sẽ phản ứng lại bằng việc sẵn sàng "ôm" sản phẩm của DN để chờ tăng giá. Tuy nhiên, việc này chỉ có thể áp dụng với các sản phẩm đang được ưa chuộng và có tính khan hiếm hay hàng hoá thiết yếu.
Thứ ba, ghi nhận trước doanh thu và lợi nhuận đối với các hoạt động có thời gian dài. Thủ thuật này thường được áp dụng trong các DN xây dựng.
Doanh thu sản phẩm cung cấp phải mất nhiều năm nên DN được phép ghi nhận định kỳ (như hợp đồng xây dựng), dựa trên ước tính chủ quan của bên nghiệm thu là DN tiến hành viết hoá đơn và ghi nhận doanh số cũng như lợi nhuận. Thời gian thi công kéo dài suốt nhiều năm tài chính là cơ sở để thực hiện thủ thuật này. DN có thể chuyển doanh thu và lợi nhuận từ năm sau về năm hiện tại và ngược lại.
Thứ tư, lợi dụng các ước tính kế toán. Bằng cách lợi dụng các ước tính kế toán như: các khoản dự phòng, chi phí trả trước, chi phí trích trước và khấu hao tài sản cố định, DN có thể tăng hay giảm chi phí theo ước muốn chủ quan để có được con số lợi nhuận mong muốn.
Cắt giảm các chi phí hữu ích
Một thủ thuật khác cũng rất đáng lưu ý là việc cắt giảm các chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển, quảng cáo, duy tu bảo dưỡng thiết bị… cũng là một cách có thể làm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, vì các chi phí này có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của DN về lâu dài, nên sử dụng giải pháp này đồng nghĩa với các việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.
Trong một số tình huống, khi lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh chính không đem lại kết quả như mong muốn, để tăng lợi nhuận, DN có thể bán các khoản đầu tư sinh lời. Động thái này thường được ví như "gặt lúa non". Vì thế, áp dụng biện pháp trên có nghĩa là DN tự bỏ qua tiềm năng sinh lợi lớn từ các khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo.
1.3.Các phương pháp tính lợi nhuận:
Lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của DN trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này hiện tại chủ yếu được xác định bằng phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí trên cơ sở kế toán dồn tích. Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện của lý luận kế toán thì lợi nhuận còn có thể được xác định bằng cách so sánh giữa vốn chủ sở hữu cuối kỳ với vốn chủ sở hữu đầu kỳ.
Lợi nhuận có thể được xác định theo một trong hai phương pháp sau: phương pháp so sánh vốn chủ sở hữu và phương pháp so sánh doanh thu với chi phí.
1.3.1.Phương pháp so sánh vốn chủ sở hữu.
Theo phương pháp này, lợi nhuận một kỳ kinh doanh được xác định bằng cách so sánh giữa vốn chủ sở hữu cuối kỳ và cốn chủ sở hữu đầu kỳ. Công thức xác định lợi nhuận theo phương pháp này như sau:
lợi nhuận = Vốn chủ sở hữu cuối kỳ - Vốn chủ sở hữu đầu kỳ (1).
Vốn chủ sở hữu được xác định bằng phần chênh lệch giữa tổng tài sản và nợ phải trả. Cuối kỳ, trên cơ sở kết quả của kiểm kê, đánh giá tổng giá trị của tài sản và nợ phải trả theo giá thị trường. Trong trường hợp vốn chủ sở hữu tăng lên hay giảm xuống do các nghiệp vụ không liên quan đến lợi nhuận trong kỳ thì cần loại trừ ra khỏi vốn chủ sở hữu cuối kỳ. Một số nghiệp vụ thuộc loại này như bổ sung vốn góp từ chủ sở hữu, rút vốn hay phân phối lợi nhuận cho chủ sở hữu…Trong những tình huống này, lợi nhuận được xác định theo công thức:
Lợi nhuận trong kỳ = Vốn chủ sở hữu cuối kỳ - Vốn chủ sở hữu đầu kỳ - Vốn chủ sở hữu trong kỳ tăng lên không do tăng lợi nhuận + Vốn chủ sở hữu trong kỳ giảm xuống không do phát sinh khoản lỗ (2)
Phương pháp này có những đặc điểm sau: Một là, toàn bộ tài sản, nợ phải trả được xác định trên cơ sở giá hợp lý, không căn cứ vào giá vốn thực tế; Hai là, lợi nhuận được xác định theo phương pháp này bao gồm cả lợi nhuận được thực hiện và lợi nhuận chưa được thực hiện của kế toán dồn tích; Ba là, phù hợp với quan điểm của các nhà kinh tế về việc xác định lợi nhuận.
1.3.2.Phương pháp so sánh giữa doanh thu và chi phí
Theo phương pháp này, lợi nhuận trong kỳ được xác định bằmg cách so sánh giữa doanh thu và chi phí. Công thức xác định lợi nhuận trong kỳ theo phương pháp này như sau: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí (3)
Lợi nhuận và doanh thu và chi phí được xác định ở công thức (3) phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp. Tùy theo mức doanh thu xác định trong kỳ là bao nhiêu để xác định mức chi phí cần thiết để tạo ra số doanh thu đã được xác định. Trình tự các bước để xác định những yếu tố của công thức (3) trên đây là: Trước hết, xác định doanh thu; sau đó, xác định chi phí.
Doanh thu được xác định chủ yếu dựa trên nguyên tắc tiền mặt hay dựa trên nguyên tắc thực hiện. Ngày nay, hầu như doanh thu của các đơn vị kinh doanh được ghi nhận theo nguyên tắc thực hiện, những lý do cơ bản của tính áp dụng rộng rãi nguyên tắc ghi nhận doanh thu này trong thực tế là tính khách quan khi ghi nhận mức doanh thu, tính xác thực của tài sản, chi phí và tính phù hợp giữa doanh thu với chi phí.
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận doanh nghiệp bao gốm lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận từ hoạt động khác .Trong đó lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính là lợi nhuận thu được từ việc bán các sản phẩm ,hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp , mà lợi nhuận từ tiêu thụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận tiêu thụ lại phục thuộc vào: doanh thu tiêu thụ , giá thành sản xuất của sản phẩm. Vì thuế là khoản cố định , là chỉ tiêu thể hiện nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp với nhà nước ,các doanh nghiệp có nghĩa vụ phải hoàn thành , do đó thuế là khoản không ảnh hưởng tới lợi nhuận. Như vậy ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận chỉ là doanh thu bán hàng, giá thành và chi phí.
1.4.1.Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ
Doanh thu tiêu thụ phụ thuộc vào số lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bán đơn vị sản phẩm. do đó ta có nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ có:
Khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ
Nhân tố khối lượng được coi là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng nhất , khối lượng tiêu thụ tăng giảm bao nhiêu lần sẽ kéo theo doanh thu tiêu thụ tăng giảm bấy nhiêu lần. Số lượng sản phẩm sản xuất phản ánh mặt chủ quan của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh như tăng số lượng sản xuất sản phẩm, dự trữ hợp lý đầu kỳ và cuối kỳ tiêu thụ sản phẩm ,mở rộng thị trường tiêu thụ.
Chất lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và chất lượng sản phẩm nói riêng có tính chất quyết định đến vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong cơ chế hiện nay .Nếu một doanh nghiệp không ngừng chú ý đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp đó sẽ dễ dàng chiếm lĩnh được thị trường và theo đó uy tín của doanh nghiệp cũng được nâng lên. Trong điều kiện nền kinh tế có sự cạnh tranh mạnh mẽ thì chất lượng sản phẩm, uy tín doanh nghiệp chính là một trong những điều kiện cần thiết cho sự tốn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Mặt khác trong điều kiện các yếu tố sản xuất không đổi, việc đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm là cách để doanh nghiệp tiêu thụ được lượng lớn sản phẩm sản xuất ra tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Kết cấu mặt hàng.
Mỗi một loại sản phẩm tiêu thụ có một loại giá bán khác nhau, cao hay thấp tuỳ từng trường hợp vào giá trị của sản phẩm đó. Nếu doanh nghiệp tăng tỷ trọng sản xuất và tiêu thụ mặt hàng có giá bán cao và giảm tỷ trọng sản xuất mặt hàng có giá bán thấp thì khi đó tổng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ không thay đổi nhưng tổng doanh thu xẽ tăng lên và ngược lại.
Việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất và tiêu thụ cũng ảnh hưởng đến doanh thu , song tình hình hiện nay chủ yếu do sự biến động của thị trường , trong điều kiện này doanh nghiệp phải tự điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, để làm được điều trên thì đòi hỏi những người làm công tác quản lý và điều hành doanh nghiệp phải luôn nhạy bén với xu hướng thị trường ,phải nghiên cứu phải điều tra và nắm bắt đấy đủ thông tin cũng như nhu cầu thị trường.
Gía cả sản phẩm ,hàng hoá ,dịch vụ tiêu thụ.
Trong trường hợp các nhân tố khác không đổi thì việc thay đổi giá bán cũng ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu, trong khi đó thông thường giá bán của sản phẩm là do doanh nghiệp tự xây dựng chỉ có một số sản phẩm được định giá cụ thể. Vì vậy doanh nghiệp phải có chính sách giá hợp lý để có thể thu được nhiều doanh thu bảo đảm có lợi nhuận.
Khi khối lượng sản phẩm sản xuất không đổi sẽ làm tăng doanh thu và ngược lại, nhưng trong điều kiện nền kinh tế hiện nay giá bán các mặt hàng được hình thành một cách khách quan do quan hệ cung cầu trên thị trường , vì vậy mà doanh nghiệp cũng không thể tự điều chỉnh giá bán cao hơn giá mặt hàng cùng loại trên thị trường.
Đặc biệt một số doanh nghiệp được nhà nước ra chỉ tiêu sản xuất và tiêu thụ mặt hàng nào đó thì giá bán mặt hàng đó sẽ được nhà nước quy định. Trong trường hợp này giá bán thay đổi dẫn đến doanh thu cũng thay đổi và điều này được đánh giá là tác động khách quan ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp.
Thị trường tiêu thụ và cách tiêu thụ ,thanh toán tiền hàng
Thị trường tiêu thụ đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp . Nếu sản phẩm của một doanh nghiệp có thị trường tiêu thụ rộng lớn không chỉ trong nước mà cả thị trường quốc tế, khả năng cạnh tranh của sản phẩm cao ngay tại thị trường đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao và có sức mua lớn thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện tăng doanh thu nhanh. Vì vậy việc khai thác , mở rộng thị trường tiêu thụ là một nhân tố để tăng doanh thu của doanh nghiệp.
Cắt giảm các chi phí hữu ích
Một thủ thuật khác cũng rất đáng lưu ý là việc cắt giảm các chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển, quảng cáo, duy tu bảo dưỡng thiết bị… cũng là một cách có thể làm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, vì các chi phí này có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của DN về lâu dài, nên sử dụng giải pháp này đồng nghĩa với các việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.
Trong một số tình huống, khi lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh chính không đem lại kết quả như mong muốn, để tăng lợi nhuận, DN có thể bán các khoản đầu tư sinh lời. Động thái này thường được ví như "gặt lúa non". Vì thế, áp dụng biện pháp trên có nghĩa là DN tự bỏ qua tiềm năng sinh lợi lớn từ các khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo.
KẾT LUẬN CHUNG
Lợi nhuận của doanh nghiệp là bộ phận cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường thì vai trò của nó càng trở nên quan trọng. Chỉ có doanh nghiệp nào sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận cao thì doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh và tồn tại lâu dài được. Do đó phấn đấu tăng lợi nhuận không những là mục đích của sản xuất kinh doanh mà nó còn là đòn bẩy kinh tế ,là động lực thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế lượng trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
2. Giáo trình quản trị doanh nghiệp-NXB giáo dục
3. Giáo trình kế toán tài chính- Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
4. Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Xây Dựng và Thương Mại Việt Nhật
5. Các văn bản quyết định về công ty Xây Dựng và Thương Mại Việt Nhật
6. Tạp chí tài chính kế toán ,ngân hàng, kinh tế phát triển…
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 NHỮNG LÝ THUYẾT CĂN BẢN VỀ LỢI NHUẬNTRONG DOANH NGHIỆP 3
1.1.Khái niệm về lợi nhuận 3
1.1.1.Định nghĩa: 3
1.1.2. Ý nghĩa của lợi nhuận 4
1.1.3.Hạn chế 5
1.1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá mức sinh lời của doanh nghiệp khác 6
1.2.Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp 8
1.2.1. Hạ giá thành sản phẩm 10
1.2.2.Tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ 11
1.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 12
1.3.Các phương pháp tính lợi nhuận: 14
1.3.1.Phương pháp so sánh vốn chủ sở hữu. 15
1.3.2.Phương pháp so sánh giữa doanh thu và chi phí 16
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. 16
1.4.1.Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ 17
1.4.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới giá thành và chi phí. 19
1.4.3. Nhân tố ảnh hưởng về điều kiện tự nhiên và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. 20
CHƯƠNG 2MÔ HÌNH PHÂN TÍCH LỢI NHUẬN TẠI CÔNG TY XÂY DỰNGVÀ THƯƠNG MẠI VIỆT NHẬT 21
2.1.Khái quát về tình hình tổ chức quản lý kinh doanh tại công ty Maxvitra 21
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty. 21
2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý, kế toán, tổ chức sản xuất của công ty. 23
2.1.3.Những khó khăn chủ yếu tại công ty: 25
2.1.3.1.Khách quan: 25
2.1.3.2. Chủ quan: 27
2.2.Thực trạng lợi nhuận tại công ty Maxvitra. 27
2.2.1. Một số kết quả chủ yếu về hoạt động kinh doanh của công ty trong 2 năm 2007 và năm 2008. 29
2.2.1.1.Tình hình tiêu thụ máy móc thiết bị năm 2007 và năm 2008 30
2.2.1.2.Trong lĩnh vực gia công lắp ráp điện tử: 31
2.2.1.3.Đối với lĩnh vực thi công công trình giao thông: 31
2.2.2.Một số chỉ tiêu tài chính năm 2007 và năm 2008 32
2.2.2.1. Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của công ty trong năm 2007 và năm 2008. 32
2.2.2.2.Chỉ tiêu tài chính đặc trưng 35
2.2.3.Tình hình quản lý chi phí kinh doanh ở công ty 36
2.2.3.1.Tình hình quản lý giá vốn hàng bán 37
2.2.3.2.Quản lý chi phí kinh doanh 37
2.2.4.Tình hình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp 39
2.3.Xây dựng mô hình lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí. 39
2.3.1.Mô tả số liệu 39
2.3.2. Thống kê mô 40
2.3.3.Kiểm định tính dừng của sai phân bậc 1 43
2.3.4.Mô hình 44
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO LỢI NHUẬN TẠI CÔNG TY XÂY DỰNG VÀ THƯƠNG MẠI VIỆT NHẬT 51
3.1.Huy động vốn ,quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 52
3.2.Đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ công nhân viên 53
3.2.1.Đối với hoạt động xuất nhập khẩu 53
3.2.2.Đối với lĩnh vực gia công lắp ráp linh kiện điện tử. 54
3.2.3. Đối với lĩnh vực thi công công trình giao thông. 54
3.3.Phấn đấu khai thác ,mở rộng thị trường những mặt hàng cũ đồng thời tìm kiếm thâm nhập thị trường mặt hàng kinh doanh mới. 54
3.4.Tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ 55
3.5.Đổi mới và đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ , hoạt động tài chính , góp phần tăng lợi nhuận của công ty 56
3.6. Một số thủ thuật làm tăng lợi nhuận mà các doanh nghiệp hay áp dụng 56
KẾT LUẬN CHUNG 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết mục đích cơ bản của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là tạo ra lợi nhuận và mục đích cuối cùng cũng là lợi nhuận. Ngày nay, doanh nghiệp hoàn toàn có thể tiếp cận và khai thác các chức năng nổi trội trong “nền kinh tế internet” để tối đa hóa lợi nhuận.
Trong bất cứ một hình thức tổ chức kinh tế nào , trong hình thái kinh tế xã hội nào thì các doanh nghiệp cũng luôn quan tâm tới vấn đề năng suất -chất lượng - hiệu quả đó chính là những tiêu chí hàng đầu trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Nó chính là thước đo trình độ phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung . Song tất cả đều thực hiện mục tiêu sâu xa của doanh nghiệp đó là thu lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận . Lợi nhuận là mục đích của sản xuất kinh doanh , là động cơ chủ yếu của các nhà đầu tư vì vậy lợi nhuận là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thực sự hiệu quả hay không.
Một nền kinh tế vững mạnh là một nền kinh tế trong đó các tế bào của nó là các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Những năm trước đây nền kinh tế của nước ta còn ở trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp các đơn vị sản xuất đã không chủ động khai thác hết khả năng và tiềm tàng sẵn có của mình do hình thành thói quen tâm lý ỷ lại, dựa dẫm vào sự bao cấp của nhà nước cho nên mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không những không mang lại hiệu quả mà còn làm cho nền kinh tế ngày một kém phát triển và tụt hậu rất nhiều so với các nước trên khu vực và trong thế giới.
Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước thì nền kinh tế của nước ta mới thực sự khởi sắc. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là có sự cạnh tranh mạnh mẽ, chính điều đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải độc lập tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và quá trình đó đã mang lại hiệu quả tức là mang lại lợi nhuận . Kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao là mục đích của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường . Đối với các doanh nghiệp lợi nhuận chính là đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất ,kích thích mạnh mẽ đến mọi hoạt động của sản xuất kinh doanh.
Phấn đấu có lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận là mối quan tâm hàng đấu của các đơn vị sản xuất kinh doanh, nó có tính chất quyết định tới sự sống còn và phát triển của mọi doanh nghiệp, vì vậy mà việc tìm hiểu nguồn gốc, những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận, xây dựng mô hình lợi nhuận và tìm ra định hướng giải pháp giúp tăng lợi nhuận của công ty là một điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Bằng những kiến thức đã được học về kinh tế lượng và phương pháp mô tả thống kê , cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Cao Xuân Hoà, cô Vũ Thị Bích Ngọc cùng toàn thể cán bộ phòng tài chính-kế toán công ty Maxvitra em xin mạnh dạn đề xuất đề tài :
“ Xây dựng mô hình lợi nhuận tại công ty Maxvitra”
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý thuyết căn bản về lợi nhuận trong doanh nghiệp
Chương 2: Xây dựng mô hình lợi nhuận tại công ty Maxvitra
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại công ty Maxvitra
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ THUYẾT CĂN BẢN VỀ LỢI NHUẬN
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.Khái niệm về lợi nhuận
1.1.1.Định nghĩa:
Lợi nhuận của doanh nghiệp là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp được xác định sau một thời kỳ nhất định được thể hiện bằng khoản tiền thu về gọi chung là doanh thu.
Khoản doanh thu có được này trước hết phải bù đắp được các chi phí sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Những chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó là :
- Các khoản chi cho nghĩa vụ đối với nhà nước của doanh nghiệp: thuế, Các khoản nộp cho ngân sách nhà nước.
- Các khoản chi cho vật chất đã bị tiêu hao trong quá trình sản xuất.
- Các khoản chi cho người lao động.
Doanh thu có được sau khi đã bù đắp hết khoản chi phí nói trên thì phần doanh thu giá trị còn lại chính là phần lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận gồm:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: là chênh lệch giữa doanh thu của hoạt kinh doanh trừ đi chi phí kinh doanh.
- Lợi nhuận của hoạt động khác: gồm lợi nhuận từ hoạt động tài chính, lợi nhuận từ hoạt động bất thường
1.1.2. Ý nghĩa của lợi nhuận
Lợi nhuận là mục đích của sản xuất kinh doanh, là động cơ chủ yếu của các nhà đầu tư vì vậy lợi nhuận được coi là một tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh không kể trong bất cứ lĩnh vực nào, hay thành phần kinh tế nào, khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều có chung một mục đích là tìm kiếm lợi nhuận. Chỉ khi nào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp mới thu được lợi nhuận . Như vậy lợi nhuận phản ánh hiệu quả và mục đích hoạt động của mỗi doanh nghiệp .Từ đó không có lợi nhuận hay lợi nhuận không cao cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả không đạt được mục tiêu kinh doanh của mình.
Trên phương diện tài chính thì lợi nhuận là một nguồn tài chính bù đắp cho những thiệt hại , rủi ro trong kinh doanh. Nó là nguồn tài chính bên trong vững chắc để bổ sung vốn mở rộng quy mô của sản xuất thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, là nguồn tài chính để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với nhà nước và nâng cao thu nhập cho người lao động, thoả mãn lợi ích của các nhà đầu tư.
Ý nghĩa của lợi nhuận đối với các chủ thể trong nền kinh tế:
Đảm bảo mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
- Dành phần lợi nhuận thích đáng để mở rộng sản xuất, chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên đơn vị.
Nội dung cơ bản của phân phối lợi nhuận doanh nghiệp tùy thuộc vào đặc điểm sở hữu của từng loại hình doanh nghiệp. Về cơ bản các doanh nghiệp đều giống nhau ở chỗ là có nghĩa vụ với Nhà nước như nộp thuế, phí, lệ phí và các khoản đóng góp nghĩa vụ khác. Phần lợi nhuận sau thuế sẽ được phân phối tùy từng loại hình doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, lợi nhuận sau thuế về cơ bản được phân phối như sau:
- Bù các khoản lỗ năm trước không được trừ lợi nhuận trước thuế.
- Trả các khoản tiền bị phạt do vi phạm kỹ luật thu nộp Ngân sách, vi phạm các hợp đồng, do nợ quá hạn…
- Trừ các chi phí bất hợp lý chưa được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (nếu có). Phần lợi nhuận còn lại dùng để trích lập các quỹ của doanh nghiệp như:
+ Trích quỹ dự phòng tài chính;
+ Trích quỹ đầu tư phát triển;
+ Trích quỹ đặc biệt (các ngành đặc thù như bảo hiểm, ngân hàng thương mại);
+ Chia lãi cổ phần (nếu có);
+ Trích quỹ khen thưởng, phúc lợi.
1.1.3.Hạn chế
Lợi nhuận đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với từng doanh nghiệp cụ thể mà đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, song không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bởi vì:
- Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng , nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. Do đó khi xem xét kết quả kinh doanh ta không chỉ đơn thuần sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận.
- Lợi nhuận doanh nghiệp qua mỗi kỳ là khác nhau do điều kiện sản xuất kinh doanh , điều kiện vận chuyển, điều kiện thị trường tiêu thụ.
- Lợi nhuận ở mỗi doanh nghiệp cùng loại là khác nhau bởi mỗi doanh nghiệp có quy mô sản xuất khác nhau ,thực tế có những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn so với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng có chất lượng quản lý tốt.
1.1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá mức sinh lời của doanh nghiệp khác
Lâu nay khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta hay sử dụng chỉ tiêu ROA(return on assets) và chỉ tiêu ROE( return on equity), không thể phủ nhận tính hữu ích của hai chỉ tiêu này bên cạnh đó thì hai chỉ tiêu này còn có những mặt hạn chế nhất định.
Chỉ tiêu ROA
Khi tính toán chỉ tiêu ROA, thì thông thường các nhà phân tích sử dụng một trong hai nguồn số liệu lấy từ báo cáo thu nhập của doanh nghiệp, đó là: Lợi nhuận hoạt động trước thuế và lãi vay (EBIT) hay Lợi nhuận sau thuế, cụ thể:
ROA = EBIT
Tổng tài sản bình quân
Hoặc:
ROA = Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân
Trong hai cách tính này, ta thấy cách tính ROA theo EBIT thì sẽ phản ánh tốt hơn nội hàm của thuật ngữ “sức sinh lợi trên tổng tài sản” (Return on Assets) bởi vì EBIT là toàn bộ kết quả mà doanh nghiệp sử dụng toàn bộ tài sản của mình để tạo ra, không phân biệt đối tượng được hưởng kết quả này là ai: chủ doanh nghiệp, ngân hàng cho vay hay Nhà nước (thông qua thuế).
Tuy nhiên, ở cả hai cách tính này vẫn hàm chứa một số rủi ro nếu được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác nhau. Như ta đã biết, tổng tài sản bình quân được tính toán dựa trên chỉ tiêu tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, số liệu này được cấu thành bởi khá nhiều bộ phận, trong đó có những bộ phận sẽ thay đổi một cách nhanh chóng trong vòng một vài ngày, nghĩa là vào ngày chốt sổ kế toán để tiến hành lập báo cáo tài chính (chẳng hạn là 31/12/N) và ngay sau đó, tức là vào tháng 1/N+1, tổng tài sản của doanh nghiệp là khác nhau, ví dụ như: các khoản mục hàng tồn kho, phải thu, phải trả. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến chỉ tiêu ROA dù tính theo bất kỳ cách nào như trên.
Chỉ tiêu ROE
Chỉ tiêu ROE được sử dụng khá nhất quán trong phân tích khi sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân.
ROE = Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
Tuy nhiên, chỉ tiêu này của các doanh nghiệp ở Việt Nam thời gian qua có sự biến động lớn do hoạt động tăng vốn. Khi tốc độ tăng vốn chủ sở hữu cao hơn tốc độ tăng lợi nhuận sau thuế thì có nghĩa là ROE sẽ giảm sút so với trước khi tăng vốn. Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp chỉ nên tăng vốn khi hiệu suất sử dụng vốn hiện đang rất cao, thêm vào đó là đòn bẩy tài chính đã sử dụng hết “công suất”. Nhưng thực tế ở Việt Nam thời gian vừa qua, có nhiều doanh nghiệp tiến hành tăng vốn để giảm vốn vay ngân hàng, hay để tiến hành đầu tư tài chính.
Chỉ tiêu ROC
Do ROA và ROE có những hạn chế nhất định khi áp dụng phân tích các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, nên có thể trình bày một chỉ tiêu khác để có thể nhìn nhận một cách toàn diện hơn năng lực sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu ROC (Return on Capital) cũng được nhiều tài liệu đề cập đến, tuy nhiên, ở đây xin trình bày một cách tính ROC khá phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
ROC = EBIT
Vốn kinh doanh bình quân
Trong đó:
• Vốn kinh doanh bình quân = Vốn vay bình quân + Vốn chủ sở hữu bình quân
• Vốn vay bình quân = Tổng số tiền lãi vay trong kỳ/Lãi suất bình quân của khoản tiền vay trong kỳ.
• Vốn chủ sở hữu bình quân: xác định dựa trên những thời điểm tăng/giảm vốn chủ sở hữu trong kỳ.
Với việc sử dụng chỉ tiêu ROC ở trên, ta có thể thu được kết quả phản ánh hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tử số thể hiện kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà không phân biệt đối tượng nào được hưởng, mẫu số thể hiện tổng nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ, không phân biệt vốn vay hay vốn chủ sở hữu.
Như vậy để tính toán được một trong các chỉ tiêu ở trên thì ta cần tính được lợi nhuận trước thuế hay sau thuế
1.2.Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp
Để tăng lợi nhuận, doanh nghiệp phải tăng doanh thu, đồng thời cắt giảm chi phí họat động. Doanh nghiệp có thể cắt giảm một loạt các chi phí như: chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm; chi phí quảng cáo; chi phí duy tu, bảo dưỡng thiết bị…. Song, các chi phí này có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của công ty, nếu doanh nghiệp áp dụng giải pháp này sẽ làm mất đi các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.
Thông thường , có 4 sự chọn lựa để tăng lợi nhuận tương ứng với 4 thời kỳ phát triển của lịch sử nhân lọai: thời kỳ sơ khai, thời kỳ phát triển của khoa học kỹ thuật, thời kỳ bùng nổ của ngành viễn thông và thời kỳ ra đời của thương mại điện tử. Trong thời kỳ sơ khai, một doanh nghiệp muốn tăng lợi nhuận phải tăng doanh thu, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải thường xuyên tăng lượng khách hàng hay tăng giá bán trên từng đơn vị sản phẩm. Để tăng lượng khách hàng thì phải tăng lượng cung ứng, đồng bộ hóa các yếu tố khác: nhân sự, quy mô kinh doanh, trong khi vẫn không giải quyết được các rào cản về không gian và thời gian. Mặt khác, những biến động của giá cả sản phẩm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mất dần khách hàng do tác động trực tiếp đến lợi ích của người mua, từ đó ảnh hưởng đến các mục tiêu kinh doanh ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp. Không ít doanh nghiệp lại lựa chọn biện pháp giảm dần chất lượng sản phẩm để tăng lợi nhuận. Họ đã đánh đổi lợi ích trước mắt cho những tổn hại lâu dài.
Khi khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, các doanh nghiệp đã có được một sự lựa chọn mới nhằm tối ưu hóa lợi nhuận. Việc áp dụng các giải pháp công nghệ cho phép cải tiến, đa dạng hóa sản phẩm hàng lọat, khép kín quy trình sản xuất, làm cho sản phẩm có chức năng mạnh hơn, lợi ích tốt hơn, tiết giảm đáng kể chi phí sản xuất. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi mức đầu tư chi phí hạ tầng cao, có sẵn nguồn nhân lực để bảo quản, duy trì máy móc họat động thường xuyên, liên tục.
Đến thời kỳ bùng nổ của ngành viễn thông, lượng thông tin trao đổi tăng đột biến. Khi đó, doanh nghiệp có thể đa dạng hóa nguồn lựa chọn, sản phẩm bán chạy do truyền thông tốt. Người ta bắt đầu quan tâm đến việc phát triển thương hiệu, một tài sản “vô hình” của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng từ đó, chi phí quảng bá thương hiệu đã gia tăng nhanh chóng, có doanh nghiệp đã dùng đến 70% tổng chi phí vào các chiến dịch Marketing và quảng bá. Nhìn chung, các giải pháp này đều có ưu điểm và nhược điểm riêng.
Thời kỳ ra đời của thương mại điện tử, có nghĩa là doanh nghiệp đã bước sang giai đọan “nền kinh tế internet”. Thương mại điện tử mà cốt lõi của nó là hoạt động trên nền tảng của internet đã đa dạng hóa cách hướng đến các mục tiêu lợi nhuân. Internet đã tạo ra cái chợ vô hình với không gian quảng cáo và cơ hội mua bán thuận tiện, nhanh hơn rất nhiều so với kiểu mua bán, giao thương truyền thống. Việc tham gia vào các họat động thương mại điện tử cho phép doanh nghiệp xây dựng hình ảnh công ty, tiếp cận lượng khách hàng vô tận, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và xuất khẩu, mở rộng thị trường mà không cần tăng quy mô kinh doanh. Môt trong nhưng ưu việt của thương mại điện tử còn là tối ưu hóa chi phí quản lý, kinh doanh. Kết nối đúng nhu cầu người mua và người bán, bỏ qua khâu trung gian sẽ giúp doanh nghiệp có giá cả cạnh tranh để duy trì và mở rộng khách hàng của mình.
Ngoài ra thì doanh nghiệp còn có thể áp dụng thêm một số biện pháp sau:
1.2.1. Hạ giá thành sản phẩm
Hạ thấp giá thành sản phẩm là phương hướng cơ bản để tăng thêm lợi nhuận cho các doanh nghiệp .Hạ thấp giá thành sản phẩm thực chất là giảm chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm, tức là tiết kiệm về chi phí lao công, chi phí quản lý. Điều này có ý nghĩa kinh tế to lớn không riêng đối với doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa trong phạm vi toàn xã hội.
Hạ thấp giá thành sản phẩm là tăng lợi nhuận mà không tăng chi phí , do đó không chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được vốn để mở rộng được quy mô sản xuất góp phần tiết kiệm chi phí cho toàn xã hội . Để hạ thấp giá thành sản phẩm góp phần gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp nên làm những việc sau đây:
Phấn đấu tăng năng suất lao động :
Tăng năng suất lao động là tổng hợp nhiều biện pháp để tăng năng lực sản xuất của người lao động, sao cho số sản phẩm sản xuất ra trong cùng một đơn vị tăng lên,hay giảm bớt thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Muốn vậy thì doanh nghiệp nên:
- Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị ,phục vụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến tạo tiền đề làm thay đổi căn bản điều kiện sản xuất , cho phép sử dụng triệt để công suất máy móc thiết bị. Đây là biện pháp trực tiếp làm tăng năng suất lao động.
- Tăng cường công tác quản lý sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động .Thực tế có những doanh nghiệp sản xuất chưa tận dụng triệt để công suất thiết kế của máy móc ,thiết bị. Tận dụng được hết công suất có thể làm số tiền khấu hao tăng lên nhưng số sản phẩm được tạo ra cũng nhiều hơn nên số tiền khấu hao tính trên một đơn vị sản phẩm lại giảm đi ,do đó làm giảm giá thành và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Tổ chức quản lý sử dụng lao động hợp lý, chú trọng nâng cao trình độ tay nghề và ý thức trách nhiệm của người lao động
Tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao
Tiết kiệm được nguyên vật liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất cũng góp phần to lớn vào việc giảm chi phí, chi phí cho nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành của sản phẩm , giảm được tỷ lệ tiêu hao này sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng lợi nhuận cho công ty.
1.2.2.Tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ
Thông thường sản phẩm sản xuất ra càng nhiều , chất lượng cao đẩy mạnh được việc tiêu thụ thì lợi nhuận doanh nghiệp ngày càng lớn . Chính vì vậy tăng số lượng sản phẩm sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh công tác tiêu thụ là một biện pháp quan trọng để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp . Đối với những doanh nghiệp làm được điều trên chủ yếu phục thuộc vào trình độ trang bị kỹ thuật của máy móc thiết bị,phục thuộc vào tay nghề người lao động và trình độ quản lý sản xuất và khả năng nắm bắt thông tin thị trường của doanh nghiệp.
Tiêu thụ là khâu cuối cùng của sản xuất ,là khâu quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ thì chỉ khi nào sản phẩm được tiêu thụ hết thì doanh nghiệp mới có cơ sở để đảm bảo quá trình tái sản xuất cũng như thu được lợi nhuận. Vì vậy đẩy mạnh tiêu thụ đòi hỏi các doanh nghiệp cần có một sự đầu tư lớn cả về vật chất cũng như thời gian.
1.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh không phải là một hoạt động đơn thuần về mặt thu chi tài chính mà thực chất là một nghệ thuật sử dụng vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh . Sử dụng vốn có hiệu quả tức là lợi nhuận thu về trên một đồng vốn bỏ vào sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều . Do đó mà việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là biện pháp cơ bản được các doanh nghiệp quan tâm.
Vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm có vốn cố định và vốn lưu động:
Vốn cố định
Vốn cố định của các doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nói riêng và vốn sản xuất nói chung. Quy mô của VCĐ có ảnh hưởng lớn trực tiếp quyết định đến trình độ trang máy móc thiết bị kỹ thuật , công nghệ và năng lực của sản xuất kinh doanh . Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định được coi là trọng điểm của công tác quản lý tài chính trong doanh nghiệp.
Vốn lưu động
Vốn lưu động là số vốn ứng trước để đầu tư mua máy móc thiết bị , nó gồm: vật tư, thành phẩm, tiền vốn. Tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng cao càng chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức công việc: dự trữ sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp là hợp lý hay không hợp lý , các khoản phí tổn trong quá trình sản xuất kinh doanh tiết kiệm hay không tiết kiệm và có hiệu quả . Vốn lưu động góp phần hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hiện nay các doanh nghiệp còn có một số các thủ thuật làm tăng lợi nhuận đó là:
Thứ nhất, DN có thể tăng doanh thu và lợi nhuận thông qua việc thực hiện giao dịch vào cuối kỳ kế toán với khách hàng mà không yêu cầu khách hàng thanh toán ngay (do được chiếm dụng vốn nên họ sẵn sàng chấp nhận).
Giao dịch này được thừa nhận như là bán hàng trả chậm, chứ không phải là bán hàng qua đại lý và nghiễm nhiên làm tăng doanh số và lợi nhuận của DN trong kỳ. Thủ thuật này thực tế là việc chuyển doanh thu và lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ báo cáo.
Thứ hai, DN sử dụng chính sách giá buộc khách hàng tự nguyện tăng doanh số trong kỳ bằng việc thông báo sẽ tăng giá vào đầu năm tài chính năm sau. Khách hàng sẽ phản ứng lại bằng việc sẵn sàng "ôm" sản phẩm của DN để chờ tăng giá. Tuy nhiên, việc này chỉ có thể áp dụng với các sản phẩm đang được ưa chuộng và có tính khan hiếm hay hàng hoá thiết yếu.
Thứ ba, ghi nhận trước doanh thu và lợi nhuận đối với các hoạt động có thời gian dài. Thủ thuật này thường được áp dụng trong các DN xây dựng.
Doanh thu sản phẩm cung cấp phải mất nhiều năm nên DN được phép ghi nhận định kỳ (như hợp đồng xây dựng), dựa trên ước tính chủ quan của bên nghiệm thu là DN tiến hành viết hoá đơn và ghi nhận doanh số cũng như lợi nhuận. Thời gian thi công kéo dài suốt nhiều năm tài chính là cơ sở để thực hiện thủ thuật này. DN có thể chuyển doanh thu và lợi nhuận từ năm sau về năm hiện tại và ngược lại.
Thứ tư, lợi dụng các ước tính kế toán. Bằng cách lợi dụng các ước tính kế toán như: các khoản dự phòng, chi phí trả trước, chi phí trích trước và khấu hao tài sản cố định, DN có thể tăng hay giảm chi phí theo ước muốn chủ quan để có được con số lợi nhuận mong muốn.
Cắt giảm các chi phí hữu ích
Một thủ thuật khác cũng rất đáng lưu ý là việc cắt giảm các chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển, quảng cáo, duy tu bảo dưỡng thiết bị… cũng là một cách có thể làm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, vì các chi phí này có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của DN về lâu dài, nên sử dụng giải pháp này đồng nghĩa với các việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.
Trong một số tình huống, khi lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh chính không đem lại kết quả như mong muốn, để tăng lợi nhuận, DN có thể bán các khoản đầu tư sinh lời. Động thái này thường được ví như "gặt lúa non". Vì thế, áp dụng biện pháp trên có nghĩa là DN tự bỏ qua tiềm năng sinh lợi lớn từ các khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo.
1.3.Các phương pháp tính lợi nhuận:
Lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của DN trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này hiện tại chủ yếu được xác định bằng phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí trên cơ sở kế toán dồn tích. Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện của lý luận kế toán thì lợi nhuận còn có thể được xác định bằng cách so sánh giữa vốn chủ sở hữu cuối kỳ với vốn chủ sở hữu đầu kỳ.
Lợi nhuận có thể được xác định theo một trong hai phương pháp sau: phương pháp so sánh vốn chủ sở hữu và phương pháp so sánh doanh thu với chi phí.
1.3.1.Phương pháp so sánh vốn chủ sở hữu.
Theo phương pháp này, lợi nhuận một kỳ kinh doanh được xác định bằng cách so sánh giữa vốn chủ sở hữu cuối kỳ và cốn chủ sở hữu đầu kỳ. Công thức xác định lợi nhuận theo phương pháp này như sau:
lợi nhuận = Vốn chủ sở hữu cuối kỳ - Vốn chủ sở hữu đầu kỳ (1).
Vốn chủ sở hữu được xác định bằng phần chênh lệch giữa tổng tài sản và nợ phải trả. Cuối kỳ, trên cơ sở kết quả của kiểm kê, đánh giá tổng giá trị của tài sản và nợ phải trả theo giá thị trường. Trong trường hợp vốn chủ sở hữu tăng lên hay giảm xuống do các nghiệp vụ không liên quan đến lợi nhuận trong kỳ thì cần loại trừ ra khỏi vốn chủ sở hữu cuối kỳ. Một số nghiệp vụ thuộc loại này như bổ sung vốn góp từ chủ sở hữu, rút vốn hay phân phối lợi nhuận cho chủ sở hữu…Trong những tình huống này, lợi nhuận được xác định theo công thức:
Lợi nhuận trong kỳ = Vốn chủ sở hữu cuối kỳ - Vốn chủ sở hữu đầu kỳ - Vốn chủ sở hữu trong kỳ tăng lên không do tăng lợi nhuận + Vốn chủ sở hữu trong kỳ giảm xuống không do phát sinh khoản lỗ (2)
Phương pháp này có những đặc điểm sau: Một là, toàn bộ tài sản, nợ phải trả được xác định trên cơ sở giá hợp lý, không căn cứ vào giá vốn thực tế; Hai là, lợi nhuận được xác định theo phương pháp này bao gồm cả lợi nhuận được thực hiện và lợi nhuận chưa được thực hiện của kế toán dồn tích; Ba là, phù hợp với quan điểm của các nhà kinh tế về việc xác định lợi nhuận.
1.3.2.Phương pháp so sánh giữa doanh thu và chi phí
Theo phương pháp này, lợi nhuận trong kỳ được xác định bằmg cách so sánh giữa doanh thu và chi phí. Công thức xác định lợi nhuận trong kỳ theo phương pháp này như sau: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí (3)
Lợi nhuận và doanh thu và chi phí được xác định ở công thức (3) phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp. Tùy theo mức doanh thu xác định trong kỳ là bao nhiêu để xác định mức chi phí cần thiết để tạo ra số doanh thu đã được xác định. Trình tự các bước để xác định những yếu tố của công thức (3) trên đây là: Trước hết, xác định doanh thu; sau đó, xác định chi phí.
Doanh thu được xác định chủ yếu dựa trên nguyên tắc tiền mặt hay dựa trên nguyên tắc thực hiện. Ngày nay, hầu như doanh thu của các đơn vị kinh doanh được ghi nhận theo nguyên tắc thực hiện, những lý do cơ bản của tính áp dụng rộng rãi nguyên tắc ghi nhận doanh thu này trong thực tế là tính khách quan khi ghi nhận mức doanh thu, tính xác thực của tài sản, chi phí và tính phù hợp giữa doanh thu với chi phí.
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận doanh nghiệp bao gốm lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận từ hoạt động khác .Trong đó lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính là lợi nhuận thu được từ việc bán các sản phẩm ,hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp , mà lợi nhuận từ tiêu thụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận tiêu thụ lại phục thuộc vào: doanh thu tiêu thụ , giá thành sản xuất của sản phẩm. Vì thuế là khoản cố định , là chỉ tiêu thể hiện nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp với nhà nước ,các doanh nghiệp có nghĩa vụ phải hoàn thành , do đó thuế là khoản không ảnh hưởng tới lợi nhuận. Như vậy ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận chỉ là doanh thu bán hàng, giá thành và chi phí.
1.4.1.Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ
Doanh thu tiêu thụ phụ thuộc vào số lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bán đơn vị sản phẩm. do đó ta có nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ có:
Khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ
Nhân tố khối lượng được coi là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng nhất , khối lượng tiêu thụ tăng giảm bao nhiêu lần sẽ kéo theo doanh thu tiêu thụ tăng giảm bấy nhiêu lần. Số lượng sản phẩm sản xuất phản ánh mặt chủ quan của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh như tăng số lượng sản xuất sản phẩm, dự trữ hợp lý đầu kỳ và cuối kỳ tiêu thụ sản phẩm ,mở rộng thị trường tiêu thụ.
Chất lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và chất lượng sản phẩm nói riêng có tính chất quyết định đến vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong cơ chế hiện nay .Nếu một doanh nghiệp không ngừng chú ý đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp đó sẽ dễ dàng chiếm lĩnh được thị trường và theo đó uy tín của doanh nghiệp cũng được nâng lên. Trong điều kiện nền kinh tế có sự cạnh tranh mạnh mẽ thì chất lượng sản phẩm, uy tín doanh nghiệp chính là một trong những điều kiện cần thiết cho sự tốn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Mặt khác trong điều kiện các yếu tố sản xuất không đổi, việc đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm là cách để doanh nghiệp tiêu thụ được lượng lớn sản phẩm sản xuất ra tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Kết cấu mặt hàng.
Mỗi một loại sản phẩm tiêu thụ có một loại giá bán khác nhau, cao hay thấp tuỳ từng trường hợp vào giá trị của sản phẩm đó. Nếu doanh nghiệp tăng tỷ trọng sản xuất và tiêu thụ mặt hàng có giá bán cao và giảm tỷ trọng sản xuất mặt hàng có giá bán thấp thì khi đó tổng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ không thay đổi nhưng tổng doanh thu xẽ tăng lên và ngược lại.
Việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất và tiêu thụ cũng ảnh hưởng đến doanh thu , song tình hình hiện nay chủ yếu do sự biến động của thị trường , trong điều kiện này doanh nghiệp phải tự điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, để làm được điều trên thì đòi hỏi những người làm công tác quản lý và điều hành doanh nghiệp phải luôn nhạy bén với xu hướng thị trường ,phải nghiên cứu phải điều tra và nắm bắt đấy đủ thông tin cũng như nhu cầu thị trường.
Gía cả sản phẩm ,hàng hoá ,dịch vụ tiêu thụ.
Trong trường hợp các nhân tố khác không đổi thì việc thay đổi giá bán cũng ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu, trong khi đó thông thường giá bán của sản phẩm là do doanh nghiệp tự xây dựng chỉ có một số sản phẩm được định giá cụ thể. Vì vậy doanh nghiệp phải có chính sách giá hợp lý để có thể thu được nhiều doanh thu bảo đảm có lợi nhuận.
Khi khối lượng sản phẩm sản xuất không đổi sẽ làm tăng doanh thu và ngược lại, nhưng trong điều kiện nền kinh tế hiện nay giá bán các mặt hàng được hình thành một cách khách quan do quan hệ cung cầu trên thị trường , vì vậy mà doanh nghiệp cũng không thể tự điều chỉnh giá bán cao hơn giá mặt hàng cùng loại trên thị trường.
Đặc biệt một số doanh nghiệp được nhà nước ra chỉ tiêu sản xuất và tiêu thụ mặt hàng nào đó thì giá bán mặt hàng đó sẽ được nhà nước quy định. Trong trường hợp này giá bán thay đổi dẫn đến doanh thu cũng thay đổi và điều này được đánh giá là tác động khách quan ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp.
Thị trường tiêu thụ và cách tiêu thụ ,thanh toán tiền hàng
Thị trường tiêu thụ đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp . Nếu sản phẩm của một doanh nghiệp có thị trường tiêu thụ rộng lớn không chỉ trong nước mà cả thị trường quốc tế, khả năng cạnh tranh của sản phẩm cao ngay tại thị trường đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao và có sức mua lớn thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện tăng doanh thu nhanh. Vì vậy việc khai thác , mở rộng thị trường tiêu thụ là một nhân tố để tăng doanh thu của doanh nghiệp.
Cắt giảm các chi phí hữu ích
Một thủ thuật khác cũng rất đáng lưu ý là việc cắt giảm các chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển, quảng cáo, duy tu bảo dưỡng thiết bị… cũng là một cách có thể làm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, vì các chi phí này có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của DN về lâu dài, nên sử dụng giải pháp này đồng nghĩa với các việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.
Trong một số tình huống, khi lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh chính không đem lại kết quả như mong muốn, để tăng lợi nhuận, DN có thể bán các khoản đầu tư sinh lời. Động thái này thường được ví như "gặt lúa non". Vì thế, áp dụng biện pháp trên có nghĩa là DN tự bỏ qua tiềm năng sinh lợi lớn từ các khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo.
KẾT LUẬN CHUNG
Lợi nhuận của doanh nghiệp là bộ phận cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường thì vai trò của nó càng trở nên quan trọng. Chỉ có doanh nghiệp nào sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận cao thì doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh và tồn tại lâu dài được. Do đó phấn đấu tăng lợi nhuận không những là mục đích của sản xuất kinh doanh mà nó còn là đòn bẩy kinh tế ,là động lực thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế lượng trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
2. Giáo trình quản trị doanh nghiệp-NXB giáo dục
3. Giáo trình kế toán tài chính- Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
4. Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Xây Dựng và Thương Mại Việt Nhật
5. Các văn bản quyết định về công ty Xây Dựng và Thương Mại Việt Nhật
6. Tạp chí tài chính kế toán ,ngân hàng, kinh tế phát triển…
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 NHỮNG LÝ THUYẾT CĂN BẢN VỀ LỢI NHUẬNTRONG DOANH NGHIỆP 3
1.1.Khái niệm về lợi nhuận 3
1.1.1.Định nghĩa: 3
1.1.2. Ý nghĩa của lợi nhuận 4
1.1.3.Hạn chế 5
1.1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá mức sinh lời của doanh nghiệp khác 6
1.2.Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp 8
1.2.1. Hạ giá thành sản phẩm 10
1.2.2.Tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ 11
1.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 12
1.3.Các phương pháp tính lợi nhuận: 14
1.3.1.Phương pháp so sánh vốn chủ sở hữu. 15
1.3.2.Phương pháp so sánh giữa doanh thu và chi phí 16
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. 16
1.4.1.Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ 17
1.4.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới giá thành và chi phí. 19
1.4.3. Nhân tố ảnh hưởng về điều kiện tự nhiên và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. 20
CHƯƠNG 2MÔ HÌNH PHÂN TÍCH LỢI NHUẬN TẠI CÔNG TY XÂY DỰNGVÀ THƯƠNG MẠI VIỆT NHẬT 21
2.1.Khái quát về tình hình tổ chức quản lý kinh doanh tại công ty Maxvitra 21
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty. 21
2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý, kế toán, tổ chức sản xuất của công ty. 23
2.1.3.Những khó khăn chủ yếu tại công ty: 25
2.1.3.1.Khách quan: 25
2.1.3.2. Chủ quan: 27
2.2.Thực trạng lợi nhuận tại công ty Maxvitra. 27
2.2.1. Một số kết quả chủ yếu về hoạt động kinh doanh của công ty trong 2 năm 2007 và năm 2008. 29
2.2.1.1.Tình hình tiêu thụ máy móc thiết bị năm 2007 và năm 2008 30
2.2.1.2.Trong lĩnh vực gia công lắp ráp điện tử: 31
2.2.1.3.Đối với lĩnh vực thi công công trình giao thông: 31
2.2.2.Một số chỉ tiêu tài chính năm 2007 và năm 2008 32
2.2.2.1. Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của công ty trong năm 2007 và năm 2008. 32
2.2.2.2.Chỉ tiêu tài chính đặc trưng 35
2.2.3.Tình hình quản lý chi phí kinh doanh ở công ty 36
2.2.3.1.Tình hình quản lý giá vốn hàng bán 37
2.2.3.2.Quản lý chi phí kinh doanh 37
2.2.4.Tình hình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp 39
2.3.Xây dựng mô hình lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí. 39
2.3.1.Mô tả số liệu 39
2.3.2. Thống kê mô 40
2.3.3.Kiểm định tính dừng của sai phân bậc 1 43
2.3.4.Mô hình 44
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO LỢI NHUẬN TẠI CÔNG TY XÂY DỰNG VÀ THƯƠNG MẠI VIỆT NHẬT 51
3.1.Huy động vốn ,quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 52
3.2.Đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ công nhân viên 53
3.2.1.Đối với hoạt động xuất nhập khẩu 53
3.2.2.Đối với lĩnh vực gia công lắp ráp linh kiện điện tử. 54
3.2.3. Đối với lĩnh vực thi công công trình giao thông. 54
3.3.Phấn đấu khai thác ,mở rộng thị trường những mặt hàng cũ đồng thời tìm kiếm thâm nhập thị trường mặt hàng kinh doanh mới. 54
3.4.Tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ 55
3.5.Đổi mới và đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ , hoạt động tài chính , góp phần tăng lợi nhuận của công ty 56
3.6. Một số thủ thuật làm tăng lợi nhuận mà các doanh nghiệp hay áp dụng 56
KẾT LUẬN CHUNG 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: