tidius2625

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong Tố tụng hình sự để thực hiện nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật phải cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn để hạn chế quyền và lợi ích của công dân. Các biện pháp trong tố tụng vô cùng phong phú về tính chất cũng như mức độ cưỡng chế và về đối tượng áp dụng, trong đó có biện pháp tạm giữ. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung cũng như phương hướng hoàn thiện biện pháp tạm giữ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tăng cường pháp chế, tôn trọng quyền tự do dân chủ của công dân trong hoạt động tố tụng hình sự nhưng không hạn chế khả năng và hiệu quả của hoạt động tố tụng, hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
Bài tiểu luận sau của em xin được đề cập đến vấn đề tạm giữ trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp này.
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ TẠM GIỮ
1. Khái niệm
“Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hay đối với người bị bắt theo lệnh truy nã”.
Mục đích của tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người bị tạm giữ. Tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã là để có thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt.
2. Đối tượng tạm giữ
Theo khoản 1 Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003: “Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hay đối với người bị bắt theo quyết định truy nã”.
Như vậy đối tượng tạm giữ gồm những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại Điều 81 BLTTHS 2003, người bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi phạm tội, người bị bắt theo quyết định truy nã tại Điều 82 BLTTHS 2003. Nhìn chung đối tượng bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hay phạm tội quả tang, tuy nhiên điều luật cũng không quy định bắt buộc trong tất cả mọi trường hợp bắt đó đều phải tạm giữ, mà trong một số trường hợp bắt người phạm tội quả tang, nếu xét thấy hành vi phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng lại có nơi cư trú rõ ràng không có cơ sở để cho người đó có thể trốn hay cản trở việc điều tra trong các trường hợp đó không cần thiết phải tạm giữ họ.
Điều 86 BLTTHS 2003 cũng không quy định cụ thể các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, mà căn cứ để tạm giữ được hiểu là nếu việc bắt khẩn cấp hay bắt quả tang khi có đủ căn cứ quy định tại Điều 81 và 82 BLTTHS năm 2003 thì đó cũng chính là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ. Cả hai dạng đối tượng bị tạm giữ đều trong trường hợp bắt người vậy giữa bắt người và tạm giữ có mối quan hệ gì với nhau phải chăng việc tạm giữ phụ thuộc vào việc bắt người?
Khoản 1 Điều 83 quy định “Sau khi bắt hay nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hay phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hay trả tự do cho người bị bắt”. Như vậy, tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn độc lập, việc áp dụng biện pháp này phải có những căn cứ nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt, nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người. Vì sau khi bắt người thì người đó không nhất thiết phải bị tạm giữ, sau khi bắt người sẽ có hai tình huống xảy ra hay là người đó bị tạm giữ hay là người đó được trả tự do.
Tạm giữ không chỉ áp dụng với các đối tượng trong trường hợp bắt người mà còn có thể áp dụng với trường hợp người phạm tội ra tự thú, đầu thú. Việc tạm giữ người tự thú, đầu thú nhằm mục đích xác minh thêm về hành vi phạm tội của người ra tự thú, đầu thú để làm rõ thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với họ.
Qua đó có thể thấy đối tượng tạm giữ của BLTTHS năm 2003 đã được mở rộng hơn so với quy định về đối tượng tạm giữ trong BLTTHS trước đó ra đời vào năm 1988, luật năm 1988 không quy định về việc tạm giữ đối với những đối tượng tự thú, đầu thú.
3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định: “Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Theo khoản 2 Điều 86 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm nhóm người sau đây:
- Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp (cơ quan điều tra trong công an nhân dân, quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao…)
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.
- Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Như vậy cơ quan điều tra cấp huyện trở lên mới có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hay đang bị truy nã thì Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền. Những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người thay mặt của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hay trong lực lượng vũ trang.
4. Thủ tục tạm giữ
Theo quy định tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS 2003, việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ không có lệnh của người có thẩm quyền, người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Khi kiểm sát việc tạm giữ, nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hay không cần thiết phải tạm giữ thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ và cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:
- Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hay đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú.
- Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hay cản trở công việc điều tra.
5. Thời hạn tạm giữ
Điều 87 BLTTHS năm 2003 quy định:
“1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
2. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá 3 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn: trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn.
3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
4. Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam”.
Việc quy định được gia hạn tạm giữ cụ thể quy định có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhằm bảo đảm tính có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn lan, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp luật được tốt. Ngoài ra việc đặt ra quy định khi gia hạn tạm giữ cần có quyết định phê chuẩn của viện kiểm sát cùng cấp nhằm bảo đảm quyền lợi cho công dân tránh tình trạng do những mâu thuẫn cá nhân ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị tạm giữ.
Khoản 4 Điều 87 quy định thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Quy định này có mục đích nhân đạo, do vậy cho phép nếu sau đó người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và họ tạm giam thì được trừ đi thời hạn họ đã bị tạm giữ vào thời hạn tam giam. Tuy nhiên sau này, nếu như người phạm tội bị Tòa án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt tù. Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”.
Điểm mới về thời hạn tạm giữ trong BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988 là bổ sung về thời hạn trong khoảng thời gian 12 giờ Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn quyết định ra hạn tạm giữ. Điều này góp phần đảm bảo quyền lợi của người bị tạm giữ.
II. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
1. Ưu điểm
1.1. Về đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ
Pháp luật tố tụng hình sự đã chỉ ra 1 cách cụ thể các đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hay người phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đấu thú hay đối với người bị bắt theo lệnh truy nã. Chính việc quy định 1 cách cụ thể các trường hợp áp dụng như trên tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng đối tượng cần tiến hành bắt giữ trên thực tế, tránh nhầm lẫn (khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003).
+ Trường hợp bắt người khẩn cấp thường phải bị tạm giữ vì trong hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp cơ quan điều tra đã xác định cần ngăn chặn việc người đó trốn hay cản trở điều tra.
+ Trường hợp người bị bắt phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động biểu hiện cản trở việc điều tra thì không cấn phải tạm giữ.
+ Người bị bắt theo lệnh truy nã ngay sau khi lấy lời khai cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan này đến nhận người bị bắt. Việc tạm giữ đối với người này chỉ dặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.
Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm đến việc tạm giữ người chưa thành niên phạm tội khi đưa ra quy định chi tiết, rõ ràng sau “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong truờng hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hay đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dứới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hay phạm tội đặc biệt nghiêm trọng” (Điều 303 BLTTHS năm 2003).
Trong khi tạm giữ nếu không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, đây là quy định mới so với BLTTHS 1988. Đây là một ưu điểm vì bảo vệ quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, quy định chặt chẽ hơn việc tạm giữ người, hạn chế việc phải bồi thường thiệt hại cho người bị bắt oan.
Khi người bị tạm giữ có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hay có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc thì ra cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm đối với họ. Trong trường hợp người bị tạm giữ có nhà hay tài sản khác không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có nhiệm vụ trông nom, bảo quản. Quy định này thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ.
1.2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự đã chỉ ra một cách cụ thể về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ thuộc về cơ quan nào và trách nhiệm của họ khi thi hành quyết định tạm giữ (khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003). Đó là: Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của BLTTHS năm 2003 và Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ
1.3. Về thời hạn tạm giữ
BLTTHS năm 2003 đã quy định rõ thời hạn tạm giữ (khoảng thời gian cụ thể) và cách tính thời gian tạm giữ (Điều 87). Quy định này thể hiện sự tôn trọng các quyền nhân thân quan trọng của công dân cụ thể đó là quyền tự do thân thể của Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và chính sách nhân đạo của nhà nước ta.
2. Những bất cập còn tồn tại trong việc quy định về biện pháp tạm giữ
2.1. Về đối tượng bị áp dụng đối với biện pháp tạm giữ
Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Mà như chúng ta đã biết, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Chính vì vậy, quy định tại khoản 1 Điều 86 vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là người bị bắt, điều này là không hợp lý.
Quy định của luật về tạm giữ người chưa thành niên tại Điều 303 không nên chỉ phụ thuộc vào loại tội mà họ đã thực hiện trên thực tế.
2.2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ”.
Việc điều luật quy định bổ sung thêm thẩm quyền ra lệnh tạm giữ cho Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Xuất phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng cảnh sát biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì Thủ trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng nào? Chính vì vậy, về lý luận cũng như trong thực tế áp dụng còn vướng mắc, cần sự quy định rõ ràng.
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì các cơ quan như hải quan, kiểm lâm được tham gia vào 1 số hoạt động TTHS như khởi tố vụ án, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu như ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, xét cần ngăn chặn ngay người có hành vi phạm tội chạy trốn thì tạm giữ ngay người đó và xin lệnh tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền... Tuy nhiên cũng chưa có quy định chính thức nào trong BLTTHS cho phép cơ quan này có quyền bắt khẩn cấp và tạm giữ và như vậy thì người đã thực hiện hành vi phạm tội vẫn được tự do,tẩu tán tang vật, lẩn tránh pháp luật…
2.3. Về thời hạn tạm giữ
Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt”
Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn còn nhiều vướng mắc
Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Và như chúng ta đã biết người phạm tội tự thú đầu thú không phải là người bị bắt mà họ tự nguyện trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là: thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Điều này chưa được pháp luật quy định.
Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày. Vậy câu hỏi đặt ra là từ “ngày” trong cụm từ “ba ngày” được hiểu như thế nào? Có bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này chưa có quy định rõ, cần có sự quy định rõ ràng hơn.
Thứ ba: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Điều này có nghĩa là thời điểm tạm giữ được tính từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại điểm c Điều 81 BLTTHS thì; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng mới có quyền ra lệnh bắt trong trường hợp khần cấp, và có quyền ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là: Trong trường hợp tàu bay thì có thể kịp thời hạn để giao hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra, nhưng trong một số trường hợp tàu biển thì khó có thể về kịp thời hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra. Vậy trong trường hợp này thời hạn tạm giữ sẽ được tính như thế nào? Điều này chưa được luật quy định.
Thứ tư: Khoản 1 điều 87 quy định về thời điểm bắt đầu của thời hạn tạm giữ là thời điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt là chưa dự tính hết những phức tạp nảy sinh từ thực tiễn bởi vì trên thực tế không phải trường hợp nào cũng có thể giải ngay người bị bắt cơ quan điều tra ví dụ người bị bắt trên tàu bay,tàu biển khi tàu bay,tàu biển rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam…Những người bị bắt này có thể một thời gian khá lâu sau mới bị giải đến cơ quan điều tra được,khoảng thời gian này những người bị bắt này bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nào?bắt hay tạm giữ? Bắt thì không phải vì biện pháp bắt phải coi là kết thúc sau khi người có hành vi nguy hiểm cho xã hội bị bắt, nhưng tạm giữ cũng không phải vì lúc đó người bị bắt vẫn chưa được nhận bởi cơ quan điều tra.
* Về gia hạn tạm giữ: Theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2003: “Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không được quá 3 ngày; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lấn nhưn không được quá 3 ngày...”
Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều tra có hiệu quả hơn. Tuy nhiên luật cần nêu rõ: Trong trường hợp cần thiết đề ra quyết định tạm giữ là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Do luật chưa có quy định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không thống nhất quy đinh nảy trong việc gia hạn tạm giữ.
Mặt khác cần quy định rõ hơn “Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhưng không được quá ba ngày”. Nếu quy định như trên thì nên hiểu “hai lần” mỗi lần không được quá ba ngày hay nên hiều “hai lần” nhưng tổng thời gian hai lần đó là không quá ba ngày? Trong thực tế sẽ có nhiều người hiểu sai lệch quy định của luật. Do vậy chúng ta cần có quy định rõ hơn.
* Việc trả tự do cho người bị tạm giữ: Theo khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ.”
Việc luật quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khởi tố bị can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy định về thẩm quyền trả tự do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó đặt ra câu hỏi là: trong trường hợp người phải trả tự do cho người bị tạm giam thì ai có thẩm quyền trả tự do cho họ? Phải chăng là những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng là người có thẩm quyền ra lệnh trả tự do cho người tạm giữ hay là một chủ thể khác. Và thủ tục trả tự do luật cần có quy định rõ.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 87 BLTTHS thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Vấn đề đ ra ở đây là khi bị can bị tạm giam thì việc tính trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm như thế nào khi viết lệnh tạm giam. Đây vẫn còn là 1 thiếu sót của các nhà làm luật.
2.4. Bất cập về vấn đề người bào chữa trong tạm giữ
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 BLTTHS 2003 thì người bào chữa có thể tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người tại điều 81, 82. Như vậy người bào chữa chỉ có thể tham gia tố tụng khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người vậy đối với trường hợp tự thú, đầu thú thì người bào chữa được tham gia từ giai đoạn tố tụng nào?
Mặc dù được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ thế nhưng trong tình huống đó người bào chữa lại rất khó để có thể gặp được người đang bị tạm giữ bởi khó khăn trong khâu thủ tục đặc biệt trong hai khâu “cấp giấy chứng nhận người bào chữa” và gặp người đang bị tạm giữ.
Tóm lại: mặc dù tất cả các vấn đề như về đối tượng, căn cứ, thời hạn, thẩm quyền ra lệnh tạm giữ… được pháp luật tố tụng hình sự quy định khá chặt chẽ, nhưng các quy định này còn thể hiện nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau dẫn đến việc thực thi các biện pháp ngăn chặn nói chung và tạm giữ nói riêng còn vi phạm làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng như đến quyền lợi chính đáng của các đối tượng áp dụng. Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta cần sớm bổ sung, hoàn thiện các quy định cuả pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
III. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TẠM GIỮ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG

Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt”
Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn còn nhiều vướng mắc
Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Và như chúng ta đã biết người phạm tội tự thú đầu thú không phải là người bị bắt mà họ tự nguyện trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là: thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Điều này chưa được pháp luật quy định.
Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày. Vậy câu hỏi đặt ra là từ “ngày” trong cụm từ “ba ngày” được hiểu như thế nào? Có bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này chưa có quy định rõ, cần có sự quy định rõ ràng hơn.
Thứ ba: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Điều này có nghĩa là thời điểm tạm giữ được tính từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại điểm c Điều 81 BLTTHS thì; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng mới có quyền ra lệnh bắt trong trường hợp khần cấp, và có quyền ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là: Trong trường hợp tàu bay thì có thể kịp thời hạn để giao hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra, nhưng trong một số trường hợp tàu biển thì khó có thể về kịp thời hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra. Vậy trong trường hợp này thời hạn tạm giữ sẽ được tính như thế nào? Điều này chưa được luật quy định.
Thứ tư: Khoản 1 điều 87 quy định về thời điểm bắt đầu của thời hạn tạm giữ là thời điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt là chưa dự tính hết những phức tạp nảy sinh từ thực tiễn bởi vì trên thực tế không phải trường hợp nào cũng có thể giải ngay người bị bắt cơ quan điều tra ví dụ người bị bắt trên tàu bay,tàu biển khi tàu bay,tàu biển rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam…Những người bị bắt này có thể một thời gian khá lâu sau mới bị giải đến cơ quan điều tra được,khoảng thời gian này những người bị bắt này bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nào?bắt hay tạm giữ? Bắt thì không phải vì biện pháp bắt phải coi là kết thúc sau khi người có hành vi nguy hiểm cho xã hội bị bắt, nhưng tạm giữ cũng không phải vì lúc đó người bị bắt vẫn chưa được nhận bởi cơ quan điều tra.
* Về gia hạn tạm giữ: Theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2003: “Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không được quá 3 ngày; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lấn nhưn không được quá 3 ngày...”
Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều tra có hiệu quả hơn. Tuy nhiên luật cần nêu rõ: Trong trường hợp cần thiết đề ra quyết định tạm giữ là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Do luật chưa có quy định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không thống nhất quy đinh nảy trong việc gia hạn tạm giữ.
Mặt khác cần quy định rõ hơn “Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhưng không được quá ba ngày”. Nếu quy định như trên thì nên hiểu “hai lần” mỗi lần không được quá ba ngày hay nên hiều “hai lần” nhưng tổng thời gian hai lần đó là không quá ba ngày? Trong thực tế sẽ có nhiều người hiểu sai lệch quy định của luật. Do vậy chúng ta cần có quy định rõ hơn.
* Việc trả tự do cho người bị tạm giữ: Theo khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ.”
Việc luật quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khởi tố bị can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy định về thẩm quyền trả tự do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó đặt ra câu hỏi là: trong trường hợp người phải trả tự do cho người bị tạm giam thì ai có thẩm quyền trả tự do cho họ? Phải chăng là những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng là người có thẩm quyền ra lệnh trả tự do cho người tạm giữ hay là một chủ thể khác. Và thủ tục trả tự do luật cần có quy định rõ.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 87 BLTTHS thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Vấn đề đ ra ở đây là khi bị can bị tạm giam thì việc tính trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm như thế nào khi viết lệnh tạm giam. Đây vẫn còn là 1 thiếu sót của các nhà làm luật.
2.4. Bất cập về vấn đề người bào chữa trong tạm giữ
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 BLTTHS 2003 thì người bào chữa có thể tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người tại điều 81, 82. Như vậy người bào chữa chỉ có thể tham gia tố tụng khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người vậy đối với trường hợp tự thú, đầu thú thì người bào chữa được tham gia từ giai đoạn tố tụng nào?
Mặc dù được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ thế nhưng trong tình huống đó người bào chữa lại rất khó để có thể gặp được người đang bị tạm giữ bởi khó khăn trong khâu thủ tục đặc biệt trong hai khâu “cấp giấy chứng nhận người bào chữa” và gặp người đang bị tạm giữ.
Tóm lại: mặc dù tất cả các vấn đề như về đối tượng, căn cứ, thời hạn, thẩm quyền ra lệnh tạm giữ… được pháp luật tố tụng hình sự quy định khá chặt chẽ, nhưng các quy định này còn thể hiện nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau dẫn đến việc thực thi các biện pháp ngăn chặn nói chung và tạm giữ nói riêng còn vi phạm làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng như đến quyền lợi chính đáng của các đối tượng áp dụng. Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta cần sớm bổ sung, hoàn thiện các quy định cuả pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
III. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TẠM GIỮ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
1. Ưu điểm
Từ khi các biện pháp ngăn chặn được quy định trong đó có biện pháp tạm giữ, tạm giữ đã thể hiện được vai trò của mình trong việc ngăn ngừa tội phạm. Tạm giữ giúp cho cơ quan điều tra thuận lợi hơn trong quá trình thu thập chứng cứ, xác minh hành vi phạm tội, người phạm tội. Số lượng các trường hợp bị tạm giữ có xu hướng giảm dần tránh tình trạng tạm giữ người tràn lan.
Trong thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã tăng cường công tác kiểm sát việc tạm giữ theo tinh thần nghị quyết số 08-NQ/TW- 02/02/2002 của Bộ Chính trị bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần nâng cao chất lượng bắt giữ, hạn chế tình trạng oan, sai, số người bị tạm giữ chuyển khởi tố hình sự năm sau cao hơn năm trước. Năm 2003, số người bị tạm giữ chuyển khởi tố hình sự đạt tỷ lệ 90,66%. Năm 2004, đạt tỷ lệ 91,07%; năm 2005 đạt tỷ lện 95,07%, năm 2007 đạt tỷ lệ 95,77%. Thông qua công tác này, Viện kiểm sát các cấp đã phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật của cơ quan và người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam đã ban hành nhiều kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm.
2. Hạn chế
Theo báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành kiểm sát nhân dân trong 6 tháng từ 01/10/2004 đến 31/3/2005 tại kỳ họp thứ 7, quốc hội khóa XI về công tác kiểm sát tạm giữ, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã kiểm sát 14.343 lần nhà tạm giữ tuy việc tạm giữ đã có nhiều tiến bộ nhưng việc lạm dụng bắt khẩn cấp còn xảy ra ở một số nơi; tình trạng quá hạn tạm giữ chưa được khắc phục triệt để; tình trạng nhà tạm giữ quá tải chưa được khắc phục. Qua kiểm sát, Viện kiểm sát các cấp đã ban hành 470 kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm trong việc tạm giữ.
Hiện nay vẫn còn một số hạn chế như: thủ tục, hồ sơ đưa người tạm giữ vào nhà tạm giữ nhiều trường hợp còn thiếu biên bản. Do việc tạm giữ quá hạn nên số lượng người bị tạm giữ thường quá tải hơn so với điều kiện cơ sở vật chất của nhà tạm giữ ở địa phương. Tình trạng lẫn lộn giữa người bị tạm giữ theo thủ tục tố tụng với số người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính, người bị tạm giữ với người bị kết án giam chung một buồng, giam giữ người chưa thành niên với người đã thành niên…
Ngoài ra còn một số những vi phạm khác như: còn có hiện tượng cơ quan điều tra lấy lời khai của người bị tạm giữ vào ban đêm; còn đánh đập hay đưa người bị tạm giữ đi lao động ngoài phạm nhà tạm giữ; cơ quan có thẩm quyền tạm giữ người yêu cầu người nhà mang cơm hay thanh toán tiền ăn trong thời hạn tạm giữ; công tác quản lý người bị tạm giữ và bảo vệ nhà tạm giữ chưa được chú trọng đúng mức nên xảy ra hiện tượng đánh nhau giữa người người bị tạm giữ hay người bị tạm giữ bỏ trốn.
Việc thực hiện sai các quy định của pháp luật tố tụng hình sự làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trường hợp của hai chị em cô Hắc Thị Bạch Tuyết và cô Hắc Thị Bạch Thủy tại tỉnh Bình Thuận mà báo chí đã phản ánh là một trong những ví dụ vi phạm pháp luật không đáng xảy ra nếu người thi hành công vụ có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Thật khó tin khi chỉ mới nghi ngờ cô Hắc Thị Bạch Tuyết và em gái là Hắc Thị Bạch Thủy tráo vàng giả mà chủ tiệm vàng Mỹ Kim đã dẫn giải hai cô tới công an thị trấn Chợ Lầu; và tại đây, được công an thị trấn cho phép, chủ tiệm vàng đã tự tiện “giữ” chị em cô Tuyết từ 16 giờ ngày 21/1 đến 2 giờ ngày 22/1/2006, thậm chí còn cởi hết quần áo của các cô để khám xét ( )
Những hạn chế cơ bản của việc nắm và quản lý tình hình chấp hành pháp luật trong việc tạm giữ của Viện kiểm sát trong thời gian qua đã có nhiều ảnh hưởng tới hiệu quả và chất lượng của công tác kiểm sát tại nhà tạm giữ.
3. Nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót sai lầm trong BLTTHS 2003 về biện pháp tạm giam tạm giữ
3.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do nhận thức chưa chính xác của cơ quan, đơn vị, những cá nhân có quyền hạn trong việc tạm giữ người áp dụng tiến hành về thủ tục cũng như mục đích của biện pháp tạm giữ nên gây ra tình trạng tạm giữ oan sai, bắt người tùy tiện. Do nhận thức không đầy đủ về tính chất, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động bắt người, tạm giam, tạm giữ cũng như các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án làm cho việc vận dụng thiếu chính xác dễ dẫn đến những hoạt động tuỳ tiện, trái pháp luật xâm hại đến quyền con người, lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ hai, trình độ của cán bộ liên quan tới vấn đề tạm giữ không đều, nhiều cán bộ không nắm vững đầy đủ kiến thức cần thiết quy định về tạm giữ. Vì vậy tạm giữ không được thực hiện một cách triệt để: Đội ngũ công an quận, huyện chưa nắm vững quy định của pháp luật, trình độ nghiệp vụ còn non kém, không chấp hành nghiêm chỉnh các quy định, quy trình của việc tạm giữ người; điều tra viên chưa nắm đầy đủ kiến thức về căn cứ, quyền hạn, thủ tục tạm giữ; số lượng điều tra viên còn thiếu.
Thứ ba, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ chưa được tiến hành thường xuyên và đều khắp nên khi có sự cố thì cơ quan có thẩm quyền chưa có những biện pháp xử lý kịp thời. Sự phối hợp giữa Viện kiểm sát và người có trách nhiệm, quyền hạn chưa được quy định bằng một quy chế thống nhất nên chưa tạo được mối quan hệ phối hợp cần thiết giữa các bên, dẫn đến việc không phát hiện kịp thời những vi phạm để kiến nghị, kháng nghị trong phạm vi quyền hạn của mình.
Thứ tư, điều kiện cần thiết đảm bảo cho công tác tạm giữ chưa được chú trọng đúng mức, điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí sửa chữa, xây dựng thấp.
Thứ năm, công tác quản lý, theo dõi những người bị tạm giữ chưa được duy trì chặt chẽ nên tình trạng người bị tạm giữ bỏ trốn, chết trong thời hạn bị tạm giữ rất lớn.
3.2. Nguyên nhân về phương diện pháp luật
Đây là nguyên nhân quan trọng nhất, hệ thống pháp luật về biện pháp tạm giữ hiện nay còn thiếu đồng bộ, thống nhất và toàn diện:
+ Chưa dự kiến được hết những đối tượng cần áp dụng biện pháp tạm giữ;
+ Thời hạn tạm giữ chưa đủ để tiến hành hoạt động tố tụng;
+ Chưa giành quyền tố tụng cần thiết cho một số đối tượng tiến hành tố tụng, những người này có quyền ra lệnh tạm giữ nhưng lại không có quyền gia hạn tạm giữ nên trong trường hợp điều kiện công tác không cho phép họ buộc phải vi phạm quy định của pháp luật;
+ Thời hạn áp dụng các hành vi tố tụng như việc phê chuẩn của Viện kiểm sát đối với lệnh tạm giữ…của cơ quan điều tra chưa được quy đinh đầy đủ và chặt chẽ.
4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giữ để nâng cao hiệu quả áp dụng
4.1. Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân chủ quan gây ra vi phạm trong công tác tạm giữ
Những nguyên nhân chủ quan đều là những nguyên nhân thuộc về con người, nên để thiết lập trật tự, tăng cường pháp chế trong lĩnh vực tạm giữ, đảm bảo cho công dân không bị tạm giữ một cách trái pháp luật, vấn đề đầu tiên phải chú trọng vẫn là yếu tố con người như chấp hành nghiêm túc các tiêu chuẩn đối với các chức danh: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và sửa đổi bổ sung những quy định chưa phù hợp:
- Tiêu chuẩn hóa trình độ cán bộ;
- Tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn ngắn ngày về từng chuyên đề tố tụng, nâng cao trình độ của các chức danh có thẩm quyền trong lĩnh vực tạm giữ;
- Cần sớm hướng dẫn cụ thể và có biện pháp nhằm khắc phục tình trạng tạm giữ tràn lan, không đúng đối tượng, chỉ tạm giữ những đối tượng có hành vi phạm tội và có đầy đủ các điều kiện luật định, kiên quyết tránh tình trạng tạm giữ trái pháp luật;
- Kiện toàn hệ thống bảo vệ, tăng cường chế độ quản lý, giám sát người bị tạm giữ, có đầu tư thích đáng để xây dựng hệ thống nhà tạm giữ cấp quận, huyện và các trại tạm giữ đảm bảo các yêu cầu đủ về số lượng, an toàn về chất lượng và đúng các quy định về chế độ tạm giữ;
- Duy trì việc kiểm tra thường xuyên, tăng cường điều tra đột xuất theo ngành dọc, tăng cường và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm tra việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực giam giữ nhằm phát hiện kịp thời những biểu giện vi phạm để sớm có biện pháp khắc phục;
- Rà soát để đảm bảo chất lượng nhân viên và công việc tạm giữ;
- Có hình thức kỉ luật, khen thưởng xứng đáng đối với từng đối tượng cụ thể;
- Có chính sách, chế độ đãi ngộ phù hợp với những người làm công tác tạm giữ.
4.2. Các giải pháp về phương diện pháp luật
Ngoài yếu tố con người còn một nguyên nhân quan trọng nữa ảnh hưởng đến những sai phạm trong lĩnh vực tạm giữ, đó là quy định của pháp luật chưa đầy đủ, thậm chí mâu thuẫn, chồng chéo nhau dẫn tới việc áp dụng pháp luật không thống nhát, làm hạn chế hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm, vấn đề đề trên đặt ra yêu cầu cần rà soát, sửa đổi không chỉ ở những quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự mà còn cả những văn bản hướng dẫn áp dụng thi hành pháp luật, khắc phục tình trạng các văn bản dưới luật nhưng lại trái pháp luật.
Trên cơ sở các ưu điểm và nhược điểm của các quy định về biện pháp tạm giữ đã phân tích ở phần II, có thể đưa ra hướng hoàn thiện để sửa đổi những bất cập về vấn đề này như sau:
a. Thứ nhất, về đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ
Sửa đổi lại từ ngữ trong khoản 1 Điều 86 BLTTS năm 2003, tránh việc hiểu lầm giữa người phạm tội tự thú, đầu thú và người phạm tội vì bị bắt. Người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội, theo hướng sau “Tạm giữ có thể áp dụng đối với những người phạm tội tự thú, đầu thú hay đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã”.
b. Thứ hai, về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Pháp luật cần có những quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào và với những đối tượng nào. Bên cạnh đó, pháp luật nên có những quy định chính thức về việc cho phép các cơ quan như hải quan, kiểm lâm có quyền bắt khẩn cấp và tạm giữ tránh việc người đã thực hiện hành vi phạm tội có thể được tự do, tẩu tán tang vật, lẩn tránh pháp luật…
c. Thứ ba, về thời hạn tạm giữ
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 87 BLTTHS, thời hạn tạm giữ không được quá 3 ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Có nghĩa là thời hạn tạm giữ được tính từ thời điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt mà theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 81 BLTTHS thì người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng mới có quyền ra lệnh bắt trong trường hợp khẩn cấp và có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ theo Khoản 2 Điều 86 BLTTHS. Trong một số trường hợp tàu biển khó có thể về kịp thời hạn để giao cho cơ quan điều tra thì thời hạn tạm giữ được tính với người bị bắt như thế nào? Vấn đề này pháp luật nên quy định cụ thể hơn.
- Cũng theo quy định tại Khoản 1 Điều 87 BLTTHS, thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt mà theo quy định tại Khoản 1 Điều 86 BLTTHS tạm giữ có thể áp dụng đối với người áp dụng tự thú hay đầu thú và như chúng ta đã biết, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội bị bắt mà họ tự nguyện ra trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt vậy thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Vấn đề này pháp luật cũng chưa quy định cụ thể vì vậy cần có những sửa đổi, bổ sung.
- Khoản 1 Điều 87 BLTTHS quy định thời hạn tạm giữ không được quá 3 ngày, mà theo quy định tại Khoản 3 Điều 80 BLTTHS thì khi bắt bị can, bị cáo để tạm giam không được bắt người vào ban đêm trừ trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hay đang bị truy nã theo quy định tại Điều 81, 82 của Bộ luật này. Có nghĩa là đối với trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam pháp luật cũng quy định cụ thể thời gian ngày và đêm. Còn đối với quy định thời hạn tạm giữ thì không được quá 3 ngày. Vậy từ “ngày” ở đây được hiểu như thế nào? Mà theo quy định tại Khoản 2 Điều 87 BLTTHS “trong thời hạn 12 giờ…” lại quy định thời gian theo giờ, như vậy là có sự không thống nhất trong kỹ thuật lập pháp dẫn đến những áp dụng sai trên thực tế khi hiểu sai bản chất của vấn đề. Chính vì vậy cần khắc phục sự không thống nhất trên.
- Về gia hạn tạm giữ: Khoản 2 Điều 87 BLTTHS có quy định: “trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ lần 2 nhưng không quá 3 ngày”, vậy “trường hợp đặc biệt” trong điều luật là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Hiện pháp luật cũng chưa quy định rõ ràng có thể dẫn tới sự áp dụng không thống nhất quy định này trong việc gia hạn tạm giữ.
- Về việc trả tự do cho người bị tạm giữ: Cần quy định rõ thẩm quyền trả tự do cho người bị tạm giữ cũng như những quy định về thủ tục trả tự do.
d. Về vấn đề người bào chữa trong tạm giữ
Điểm d khoản 2 điều 48 quy định về quyền của người bị tạm giữ “người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa”. Tuy vậy luật lại chưa quy định việc cơ quan ra quyết định thông báo việc tạm giữ khi nào. Do đó gây khó khăn cho việc bào chữa khi người bị tạm giữ nhờ người khác bào chữa. Trong vấn đề người bào chữa cho người bị tạm giữ thì không thể không nói tới các thủ tục rườm rà gây khó khăn trong việc người bào chữa có thể gặp được người bị tạm giữ nhất là trong khâu cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Do đó cần đơn giản hóa thủ tục để người bào chữa có thể dễ dàng hơn trong việc gặp người đang bị tạm giữ nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người đang bị tạm giữ. Bên cạnh đó quy định tại khoản 1 Điều 58 theo em đây là vấn đề liên quan tới thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng là khi khởi tố bị can, khi có quyết định tạm giữ. Theo em khoản 1 Điều 58 nói về thời điểm không phải nói về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
C. KẾT LUẬN
Tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn quan trọng nhằm hạn chế tội phạm, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra bằng cách hạn chế đối tượng có khả năng chạy trốn hay phá hủy chứng cứ. Những quy định về biện pháp tạm giữ đã có nhiều thay đổi hợp lý qua quá trình phát triển từ BLTTHS năm 1988 đến BLTTHS năm 2003. Trong BLTTHS 2003 có nhiều điểm mới đã được đề cập và bổ sung về cả đối tượng tạm giữ, thời hạn tạm giữ hay thẩm quyền tạm giữ. Tuy đã có sự sửa đổi bổ sung nhưng xã hội luôn biến động và không gì là bất biến nên trong BLTTHS năm 2003 tuy đã có sự sửa đổi nhưng vẫn không tránh khỏi những sai sót gây khó khăn cho việc áp dụng luật. Với những quy định không được cụ thể dễ gây hiểu lẩm cho việc áp dụng, thêm vào đó là trình độ pháp luật của cán bộ quản lý chưa thực sự cao và không đồng đều nên dẫn tới tình trạng tạm giữ oan sai xảy ra. Trước tình hình chúng ta phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để nâng cao hơn nữa hiệu quả của biện pháp tạm giữ trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
Do biện pháp tạm giữ cũng như các biện pháp ngăn chặn khác có vai trò quan trọng trong quá trình đấu tranh với tội phạm. Nên cần có sự quan tâm hơn nữa tới các biện pháp này nhằm nâng cao hiệu quả và giảm tình trạng tạm giữ oan, sai đối tượng hay áp dụng không đúng thủ tục tố tụng trong quá trình tạm giữ.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top