pippi_0904

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối


MỤC LỤC

NỘI DUNG 1
I. Định nghĩa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh 2
1. Chứng cứ 2
2. Nguồn chứng cứ. 2
3. Phương tiện chứng minh 4
II. Quy định của pháp luật hiện hành về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh. 5
1. Chứng cứ. 5
2. Nguồn của chứng cứ. 7
3. Phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự 9
III. Một số kiến nghị hoàn thiện 10
KẾT LUẬN 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
LỜI MỞ ĐẦU

Năm 1989 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh giải quyết các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên đã dần lộ rõ hạn chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có quy phạm nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định đầy đủ về chế định này, điều đó gây khó khăn cho việc sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng không nhỏ trong việc giải trong việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện hơn, quy định đầy đủ và rõ ràng hơn về vấn đề chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh.
Bài viết dưới đây tìm hiểu về vấn đề: chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh.
NỘI DUNG
I. Định nghĩa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh
1. Chứng cứ
Chứng cứ trong TTDS có thể hiểu là những gì có thật phản ánh sự thật khách quan về vụ việc dân sự và được thu thập theo trình tự nhất định do pháp luật quy định. Do vậy, chứng cứ đóng vai trò quan trọng trong TTDS.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc dân sự, nó tồn tại trong thế giới vật chất với muôn hình muôn vẻ. Tổng quát lại có hai dạng: Các dấu vết phi vật chất, liên quan đến các tình tiết của vụ án được phản ánh vào ý thức của con người;Các dấu vết vật chất. Tất cả các “dấu vết” được coi là chứng cứ của vụ án chính là sự phản ánh các mặt riêng lẻ của sự vật về vụ án được thu thập theo một trình tự, thủ tục do luật định là căn cứ cho việc xác định sự thật vụ án, nhằm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Theo Điều 81 BLTTDS định nghĩa về chứng cứ như sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hay do Tòa án thu thập được theo trình tự thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”
Trên thực tế, thuật ngữ hai thuật ngữ chứng cứ và bằng chứng được sử dụng như nhau nhưng thực chất chúng lại có khái niệm khác nhau. Chứng cứ được dụng là căn cứ để tòa án xác định yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự đúng hay không. Trong khi đó, bằng chứng là cái mà các chủ thể đưa ra dùng để chứng tỏ yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là đúng. Thực ra, bằng chứng là phương tiện để các đương sự, người thay mặt hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người thay mặt hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự dựa vào để chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối của họ. Tuy vây, tòa án cũng có thể sử dụng những tin tức được phản ánh trong các bằng chứng để giải quyết vụ việc dân sự nếu đã kiểm tra được tính xác thực của nó.
2. Nguồn chứng cứ.
Nguồn được hiểu là nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hay nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì. Do đó, nguồn chứng cứ được hiểu là nơi chứa đựng chứng cứ. Tòa án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ để từ đó rút ra các chứng cứ cần thiết để sử dụng vào việc tìm ra sự thật vụ án và đưa ra quyết định đúng đắn để giải quyết vụ việc dân sự đó.
Theo quy định tại điều 82 BLTTDS năm 2004 thì nguồn chứng cứ được quy định trong 8 nguồn chính. Ngoài 8 nguồn chứng cứ này Tòa án không được sử dụng thêm bất cứ nguồn nào khác để thu thập làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Tại khoản 9 điều 82 BLTTDS năm 2004 quy định: “Các nguồn khác mà pháp luật có quy định” cần được hiểu đây là một quy định dự phòng của pháp luật chứ không phải là một quy định mở để Tòa án áp dụng trong quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án. Do vậy, cho đến khi pháp luật có quy định thêm một nguồn chứng cứ nào đó thì Tòa án chỉ được phép thu thập chứng cứ theo qui định từ khoản 1 đến khoản 8 Điều 82 của BLTTDS
Tuy nhiên, không phải bất cứ tài liệu, dữ kiện nào được thu thập từ các nguồn chứng cứ cũng đều được xem là chứng cứ và được sử dụng vào việc giải quyết vụ án mà các tài liệu, dữ kiện này phải đảm bảo được các thuộc tính cơ bản của chứng cứ, đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự về xác định chứng cứ.
Ví dụ: biên bản ghi lời khai của đương sự là một nguồn chứng cứ nhưng có những trường hợp toàn bộ lời khai đó là gian dối, bịa đặt thì lời khai đó không được coi là chứng cứ của vụ án.
Điều 83 BLTTDS đã quy định cụ thể về điều kiện xác định chứng cứ trong các nguồn chứng cứ. Với quy định này của điều luật chúng ta thấy rằng : đối với loại nguồn chứng cứ là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được khi có chứa đựng chứng cứ của vụ án; nếu là tài liệu đọc được nội dung thì phải là bản chính hay bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hay do các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; nếu là loại tài liệu nghe được, nhìn được (như băng đĩa ghi âm, ghi hình) thì phải xuất trình được văn bản xác nhận về xuất xứ của các tài liệu đó hay văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, ghi hình đó; có như vậy thì các tài liệu đó mới được coi là có giá trị và được sử dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án.
Đối với loại nguồn chứng cứ là vật chứng: vật chứng được pháp luật quy định là nguồn chứng cứ vì tồn tại trong chính bản thân nó là chứng cứ của vụ án, nó chỉ chứa đựng chứng cứ chứ nó không phải là chứng cứ.
Ví dụ : A kiện B đòi bồi thường chiếc xe bị hư – ở đây chiếc xe bị hư là vật chứng còn những hư hỏng của xe là chứng cứ.
Ngoài ra các lời khai của đương sự, người làm chứng, kết luận giám định, biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ và kết quả định giá tài sản nếu được tiến hành đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và đảm bảo 3 thuộc tính của chứng cứ thì sẽ được coi là chứng cứ và được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án.
3. Phương tiện chứng minh
Phương tiện chứng minh đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng dân sự. Muốn làm rõ những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thì các chủ thể chứng minh phải sử dụng những công cụ nhất định do pháp luật quy định như lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng, kết luận của người giám định…
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về phương tiện chứng minh nhưng hiểu theo nghĩa chung nhất, bao quát nhất, Phương tiện chứng minh là những công cụ do pháp luật quy định các chủ thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
Mỗi vụ việc dân sự đều có những đối tượng chứng minh riêng. Việc lựa chọn sử dụng những phương tiện chứng minh bất kỳ trong mỗi vụ việc dân sự là tùy thuộc vào những tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự cần giải quyết. Thông thường mỗi phương tiện chỉ có thể làm rõ một số tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự nhất định nhưng các tình tiết, sự kiện chứng minh trong mỗi vụ việc dân sự rất đa dạng nên trong mỗi trường hợp cụ thể các chủ thể chứng minh có thể phải sử dụng một hay nhiều phương tiện chứng minh để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
Phương tiện chứng minh có tính chất quyết định kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Để đảm bảo việc phải giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, pháp luật quy định những phương tiện chứng minh cụ thể mà các chủ thể chứng minh được sử dụng. Mỗi phương tiện cụ thể cũng chỉ được sử dụng để chứng minh khi đáp ứng được những điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Cụ thể như: các tài liệu đọc được phải là bản chính hay bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hay do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp; các tài liệu nghe được, nhìn được phải có văn bản xác nhận xuất xứ của nó; các vật chứng phải là hiện vật gốc có liên quan đến vụ việc dân sự; lời khai của đương sự, người làm chứng của pháp luật… Với quy định cụ thể và chặt chẽ Bộ luật tố tụng dân sự giúp cho hoạt động chứng minh đạt hiệu quả cao nhưng cũng không thể tránh khỏi thiếu sót khi chưa có quy định về các phương tiện chứng minh mà các chủ thể được sử dụng để làm rõ vấn đề của vụ việc dân sự.
Nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là hai khái niệm khác nhau nhưng trên thực tế chúng thường được hiểu là một. Vì trong một số trường hợp các phương tiện chứng minh cũng chính là cái có thể rút ra các tin tức về vụ việc dân sự như vật chứng, tài liệu chứa đựg chứng cứ… tức cũng là nguồn chứng cứ. Việc phân biệt nguồn chứng cứ với phương tiện chứng minh xuất phát trên những phương tiện, góc độ khác nhau như là nơi rút ra chứng cứ hay là công cụ được sử dụng để xác định các tình tiết của vụ việc dân sự.
II. Quy định của pháp luật hiện hành về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh.
1. Chứng cứ.
Theo quy định của BLTTDS, thì chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật mà đương sự bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giao nộp cho Toà án hay cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hay do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục mà BLTTDS quy định để xác định yêu cầu của đương sự là có căn cứ, có hợp pháp hay không, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được đúng đắn.
Điều 80 BLTTDS quy định thì chứng cứ được thu thập từ: Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; Các vật chứng lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng; Kết luận giám định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; Tập quán; Kết quả định giá tài sản; Các nguồn khác mà pháp luật có quy định. Tuy nhiên BLTTDS cũng có quy định là: Các tài liệu đọc được phải là bản chính, nếu là bản sao thì phải được cơ quan Công chứng chứng thực hay cơ quan có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Các tài liệu nghe được nhìn được phải có văn bản xác nhận xuất xứ. Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc... (Điều 83 BLTTDS).
Việc quy định chứng cứ chặt chẽ, rõ ràng như vậy là để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho đương sự, bảo đảm cho việc giải quyết của Toà án được đúng đắn khách quan và để khắc phục tình trạng tài liệu giả; chứng cứ giả. Trong thời buổi khoa học, kỹ thuật phát triển như hiện nay, thì việc ghép hình ảnh, lồng ghép tiếng không khó. Do đó các tài liệu đọc được mà không phải là bản chính hay bản sao nhưng không có chứng nhận của cơ quan Công chứng Nhà nước hay không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền thì tài liệu đó không phải là chứng cứ. Đối với các tài liệu nghe được, nhìn được mà không có văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hay không có văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó thì tài liệu nghe được, nhìn được đó cũng không phải là chứng cứ.
Mỗi vụ việc dân sự có đối tượng chứng minh riêng. Việc sử dụng phương tiện chứng minh nào trong mỗi vụ việc dân sự là tùy thuộc vào những tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự cần giải quyết. Thông thường, mỗi phương tiện chỉ có thể làm rõ một số tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự nhất định. Trong khi đó, các tình tiết, sự kiện chứng minh trong mỗi vụ việc dân sự rất đa dạng. Do vậy, trong mỗi trường hợp cụ thể các chủ thể chứng minh có thể phải sử dụng một hay nhiều phương tiện chứng minh để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
Hoạt động chứng minh có tính chất quyết định kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Để đảm bảo việc phải giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, pháp luật quy định những phương tiện chứng minh cụ thể mà các chủ thể chứng minh được sử dụng. Các chủ thể chứng minh chỉ được sử dụng các phương tiện chứng minh do pháp luật quy định mà không thể sử dụng bất kỳ phương tiện nào khác để chứng minh. Đồng thời, đối với mỗi phương tiện cụ thể cũng chỉ được sử dụng để chứng minh khi đáp ứng được những điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Chẳng hạn, các tài liệu đọc được phải là bản chính hay bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hay do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp; các tài liệu nghe được, nhìn được phải có văn bản xác nhận xuất xứ của nó; các vật chứng phải là hiện vật gốc có liên quan đến vụ việc dân sự; lời khai của đương sự, người làm chứng của pháp luật… Tuy vậy, trong BLTTDS chưa có quy định về các phương tiện chứng minh mà các chủ thể được sử dụng để làm rõ vấn đề của vụ việc dân sự.
III. Một số kiến nghị hoàn thiện
Việc quy định khái niệm chứng cứ trong BLTTDS vẫn đang gây tranh cãi hiện nay. Cụm từ “những gì có thật” rất khó xác định, bởi vậy nên cần có những quy định chi tiết, rõ ràng bằng các văn bản dưới luật. Ở đây nên thay thế cụm từ này bằng cụm từ “những gì phản ánh sự thật khách quan” vì cụm từ này có thể đầy đủ, toàn diện và khoa học. Những tình tiết, sự kiện phải chứng minh bao gồm các tình tiết sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự. BLTTDS quy định rõ các tình tiết sự kiện nào, như thế nào là không phải chứng minh (điều 80 BLTTDS) và nên quy định rõ những tình tiết sự kiện nào chứng minh. Vì thế, khoản c điều 80 cần bổ sung thêm nếu thẩm phán có nghi ngờ thì yêu cầu đương sự, thậm chí là cơ quan công chứng, chứng thực xác định lại, xuất trình bản gốc. Điều này tạo điều cho Tòa án thực hiện quyền của mình dễ dàng hơn.
Về thời hạn giao nộp chứng cứ: Trong BLTTDS chưa quy định rõ về thời hạn để đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự giao nộp chứng cứ. Bởi vậy nên sớm có quy định một thời hạn hợp lí để đương sự vừa có đủ thời gian thu thập chứng cứ cung cấp cho Tòa án, vừa để Tòa án kịp thời, nhanh chóng giải quyết đúng theo quy định của tố tụng dân sự.
Trong thu thập đánh giá, xác định, bảo quản, bảo vệ chứng cứ BLTTDS nên quy định thêm quyền cho Viện kiểm sát nhân dân tham gia trong vụ án để hạn chế tính chủ quan, cố ý làm trái của đương sự và người tiến hành tố tụng.
Khoản 4 điều 79 BLTTDS chưa quy định rõ là phải chịu hậu quả gì? Hậu quả như thế nào nếu đương sự không đưa ra được chứng cứ hay đưa không đủ chứng cứ. Nên quy định cụ thể hậu quả phải gánh chịu khi không thực hiện nghĩa vụ chứng minh.
Khoản 4 điều 95 BLTTDS quy định về trách nhiệm bảo quản chứng cứ của Tòa án khi lưu giữ, quy định này chưa thể hiện rõ trách nhiệm của Tòa án. Bởi vậy việc quy định rõ trách nhiệm là điều cần thiết. Để hạn chế tình trạng chứng cứ bị tiêu hủy hay có thể bị tẩu tán. BLTTDS nên quy định thời gian Tòa án buộc phải áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ khi đương sự có yêu cầu. Bên cạnh đó điều 385 BLTTDS quy định các biện pháp xử lý người có hành vi cản trở hoạt động xác minh thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng nhưng chưa quy định cụ thể về việc áp dụng các chế tài, vì thế nên quy định hình thức xử lý cụ thể người đứng đầu cơ quan, tổ chức không chịu cung cấp chứng cứ hay cung cấp tài liệu sai sự thật gây trở ngại cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Quy định rõ chế tài sẽ gớp phần nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan tổ chức đang lưu giữ chứng cứ.

KẾT LUẬN
Pháp luật về chứng cứ và chứng minh nằm trong mối quan hệ pháp lý giữa luật nội dung và luật tố tụng. Trong lý luận và thực tiễn giải quyết các vụ dân sự, chứng cứ và quá trình chứng minh cần được nhận thức đúng đắn, đầy đủ. Hiện nay, các quy định về “chứng minh và chứng cứ” được quy định thành một chương riêng trong BLTTDS. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng, thực thi các quy định về chứng cứ và chứng minh còn gặp nhiều khó khăn và bất cập, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu về lý luận để bổ sung hoàn thiện chế định chứng cứ và chứng minh trong luật TTDS Việt Nam.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
R Phân tích quy định của pháp luật về quyền của người nộp thuế Luận văn Luật 0
D Ứng dụng mô hình DEA và mô hình Hồi quy Tobit để kiểm định các nhân tố tác động đến mức độ hiệu quả của các NHTM Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Quy định của WTO về đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các thành viên đang phát triển Luận văn Kinh tế 0
D Những quy định của luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại thực tiễn áp dụng và những vấn đề đặt ra Luận văn Luật 0
D Đánh giá tác động của chính sách thời giờ làm việc – thời gian nghỉ ngơi theo quy định Luận văn Kinh tế 0
D Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính việt nam Luận văn Luật 0
D Nghiên cứu hệ thống chứng từ kế toán theo quy định của TT 200/2014/TT-BTC Luận văn Kinh tế 0
D ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO CỦA VIỆT NAM Luận văn Kinh tế 0
D Chất lượng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của bộ trưởng Văn hóa, Xã hội 0
D Quy chế pháp lý của đảo theo quy định của công ước luật biển năm 1982 và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam Luận văn Luật 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top