Download Báo cáo thực tập Di sản văn hoá Huế miễn phí
Điện Thái Hòa được xây dựng năm 1805 và mang nét phong cách độc đáo của địa phương. Nhà trước và nhà sau của điện nằm trên cùng một mặt nền, nối lại với nhau bằng một hệ thống vì kèo, đỡ một hệ thống trần được uốn cong lên như hình mai cua, gọi chung là trần vỏ cua. Bên trên trần này không có mái, mà chỉ có một cái máng xối rất lớn bằng đồng dùng để húng nước mưa từ mái sau nhà trước và mái trước nhà sau đổ xuống, hệ thống trần ở đây được gọi là trần thừa lưu. Hệ thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn giản, làm theo kiểu “vì kèo cánh ác”, hệ thống vì kèo nóc nhà trước thuộc loại vì kèo “chồng rường – giả thủ” được cấu trúc tinh xảo. Ở đây có sự kết hợp hài hòa giữa kết cấu kiến trúc và trang trí mỹ thuật, vừa có công năng chịu lực (nâng đỡ bộ mái), vừa có tác dụng thẩm mỹ rất cao. Đó là đặc tính tốt đẹp của hệ thống con-xơn ở một số cung điện của Huế.
Toàn bộ các hệ thống kèo, rường cột, xuyên trến ở đây đều liên kết với nhau một cách chặt chẽ bằng hệ thống mộng chắc chắn, làm tòa nhà trở nên vững vàng.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
bên tả ngạn sông Hương là sông Kim Long và sông Bạch Yến, đồng thời lợi dụng một số khúc sông còn lại để làm các hồ và hai con kênh: một ở trong thành là Ngụ Hà và một ở ngoài thành là Hộ Thành Hà. Riêng Hộ Thành Hà dài 7 km, rộng 35 m đã được đào bằng tay.Đến năm 1818, các quan Hoàng Công Lý, Trương Phúc Đặng, Nguyễn Đức Sĩ đứng ra trông coi khoảng 8 vạn dân và lính gọi từ các địa phương về để xây gạch ốp vào hai mặt tiền và mặt hữu của kinh thành. Còn mặt tả và mặt hậu thì được xây gạch ốp năm 1822. Trong hai năm 1831 và 1832, vua Minh Mạng cho xây thêm tường bắn trồng lên trên mặt ngoài của vòng thành. Sau đó kinh thành còn được tu bổ vào các năm 1838, 1842, 1848 và 1884.
Mười cửa thành được xây dựng vào năm 1809, nhưng các vọng lầu trên cửa thì đến những năm 1824, 1829 và 1831 mới thực hiện .
Một số bộ phận quan hệ mật thiết và gắn liền với bản thân vòng thành ấy là Trần Bình Đài (xây năm 1805), Kỳ Đài (1807), Quan Tượng Đài (1836). Còn có hàng chục công trình kiến trúc khác của các cơ quan liên hệ mật thiết với sinh hoạt của triều đình cũng đã được xây dựng bên trong và bvên ngoài Kinh Thành, như Lục Bộ (1827), Quốc Sử Quán (1821), Lầu Tàng Thơ giữa hồ Học Hải (1825), Quốc Tử Giám (1821, 1908), viện bảo tàng (1923), Tôn Nhơn Phủ (1832), Cơ Mật Viện, tức Tam Toà (1899), Phu Văn Lầu (1819), Nghênh Lương Đình, Thương Bạc Viện (1875)…
Công cuộc xây dựng kinh thành Huế và các bộ phận phụ thuộc của nó đã tốn rất nhiều thời gian, công sức và vật liệu.
Kinh thành Huế có hình gần như vuông, chu vi hơn 11 Km. Thân thành dầy 21 m, cao 6,6 m. Diện tích mặt bằng 5,2 Km2, chưa kể phần đất dùng để thiết lập hệ thống phòng ngự ở ngoại vi kinh thành.
Về vị trí, phương hướng của kinh thành, các nhà kiến trúc Việt Nam thời Gia Long đã áp dụng các nguyên tắc âm dương ngũ hành của Dịch Học, kinh thành quay mặt về hướng nam. Nghệ thuật kiến trúc Việt Nam biểu lộ rõ nét nhất là ở những vọng lâu bên trên các của thành: mái lợp ngói âm dương, bốn góc uốn hình con phụng, mặt trong của vọng lâu lại khoét hai bên chữ thọ lớn, làm toàn bộ vọng lâu giống như một cái miếu cổ.
Kinh thành Huế chịu ảnh hưởng của 2 dòng kiến trúc Âu – á.
Về nghệ thuật bố phòng quân sự, kinh thành Huế được xây dựng theo kiểu thành luỹ của Vauban: Xung quanh xây 24 pháo đài và giác bảo, cùng thành phụ là Trần Bình Đài. Tất cả các bộ phận đó cùng với vòng đai bảo vệ bên ngoài là Hộ Thành Hà, hào thành giai, phòng lộ… tạo nên một hệ thống bố phòng rất nghiêm ngặt và vững chắc.
Tính nghệ thuật và kỹ thuật thuộc hai dòng kiến trúc vừa nói đã được phối hợp và vận dụng một cách khéo léo và thích ứng vào thực địa của miền núi Ngự sông Hương.
Cho nên, trong gần 2 thế kỷ nay, nhiều nhà văn hoá, nhiều nhà chuyên môn về quy hoạch, kiến trúc quân sự và dân sự trên thế giới cũng như trong nước đã ca ngợi công trình kiến trúc này.
1.3. Đại Nội (Hoàng Thành và Tử Cấm Thành):
Nhìn chung, trải qua 13 đời vua từ Gia Long đến Bảo Đại (1802 – 1945), tất cả mọi công trình kiến trúc trong Đại Nội đều đã thêm bớt, cải biến, thay đổi vị trí và tính chất nghệ thuật một phần nào tuỳ theo sở thích, sở trường của từng đời vua cũng như từng thời đại. Tuy nhiên, cái cốt cách chính của nó vẫn là của thời Gia Long và Minh Mạng.
Mặt bằng Đại Nội xây theo hình gần vuông, mỗi cạnh khoảng 600 m. Thành xung quanh xây bằng gạch có bề dầy 1m, chiều cao 4 m. Bên ngoài thành có hệ thống hào, gọi là Kim Thuỷ Hồ, để bảo vệ thành. Mỗi mặt thành trổ 1 cửa để ra vào. Có 10 cầu đá bắc qua hào để thông thương ra ngoài.
Với hơn 100 công trình kiến trúc đẹp, mặt bằng Đại Nội chia ra làm nhiều khu vực khác nhau, giữ các chức năng riêng biệt và quanh mỗi khu vực đều có xây tường để ngăn cách nhau. Các khu vực chính là:
Từ cửa Ngọ Môn đến điện Thái Hoà: đây là nơi cử hành các cuộc đại lễ của triều đình như: lễ đăng quang, lễ vạn thọ (sinh nhật vua), lễ nguyên đán, lễ duyệt binh…và lế đại triều mỗi tháng hai lần.
Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và điện Phụng Tiên là những khu vực dành riêng để thờ các vua chúa nhà Nguyễn. Tại đây, ngoài 5 toà miếu điện chính, còn có khoảng 30 công trình kiến trúc phụ thuộc.
Cung Diện Thọ và cung Trường Sanh, mỗi cung có một toà điện chính ở giữa và hơn 10 toà nhà phụ ở chung quanh. Đây là nơi dành riêng cho Hoàng Thái Hậu (mẹ vua) và Thái Hoàng Thái Hậu (bà nội vua) ăn ở.
Phủ nội vụ: Đây là các kho tàng trữ đồ quý, các xưỏng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc ngà, gấm vóc…cho triều đình và hoàng gia sử dụng.
Vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử và Hoàng nữ khi chưa xuất phủ.
Tử Cấm Thành: là khu vực quan trọng nhất so với các khu vực kia, Tử Cấm Thành có mặt bằng hình vuông, mỗi cạnh trên dưới 300 m. Vòng tưòng thành xung quanh xây bằng gạch cao 3,50 m, ngăn cách nơi sinh hoạt của nhà vua và Hoàng gia với bên ngoài. Trong Tử Cấm Thành có gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ bao gồm nhiều cung điện huy hoàng tráng lệ lộng lẫy
vàng son. Chung quanh thành trổ 7 cửa đẻ ra vào, mà cửa chính mặt thành phía trước là Đại Cung Môn chỉ dành riêng cho vua đi. Vừa bước vào khỏi cửa này là đối diện ngay với điện Cầm Chánh là nơi vua làm việc hàng ngày. Hai bên sân điện là Tả Vu, Hữu Vu và Đông Các. Hai bên điện nay là điện Văn Minh và điện Võ Hiển quay mặt về cùng một hướng như nó. Cách một tấm bình phong dài là điện Càn Thanh, nơi vua ở. Cách một cái san nữa là cung Khôn Thái, nơi ở của Hoàng Quí Phi (Hoàng Hậu), rồi đến lầu Kiến Trung xây thời Khải Định. Hai bên dãy cung điện ấy còn có điện Quang Minh, điện Trinh Minh, điện Dưỡng Tâm, Tĩnh Quang Đường (chỗ nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách), gắn liền với Thiệu Phương Viên là vườn Ngự Uyển với những hồ ao, đình tạ, cầu cống…và đối xứng bên kia là Lục Viện, thế giới của Phi tần cung nữ, hoạn quan, nơi đã diễn ra bao nhiêu chuyện thâm cung bí sử dưới thời 13 vua nhà Nguyễn.
Chú thích mặt bằng tổng thể kiến trúc Thành Nội:
1. Ngọ Môn. 2. Cửu vị Thần công
3. Hồ Thái Dịch 4. Cầu Trung Đạo
5. Cửa Hiển Nhơn 6. Cửa Chương Đức
7. Cửa Hòa Bình 8. Sân Đại Triều
9. Điện Thái Hòa 10. Triệu Miếu
11. Thái Miếu 12. Hưng Miếu
13. Thế Miếu 14. Cửu Đỉnh
15. Hiển Lâm Các 16. Điện Phụng Tiên
17. Cung Điện Thọ 18. Cung Trường Sanh
19. Phủ Nội Vụ 20. Vườn Hạ Cơ
21. Đại Cung Môn 22. Vạc Đồng
23. Điện Cần Chánh 24. Tả, Hữu Vu
25. Điện Càn Thành 26. Điện Khôn Thái
27. Lầu Kiến Trung 28. Ngự Tiền Văn Phòng
29. Thái Bình Lâu 30. Vườn Ngự Uyển
31. Duyệt Thị Đường 32. Lục Viện
1.4. Ngọ Môn:
Ngọ Môn là cổng chính cũng là bộ mặt của Hoàng Thành. Mặc dù đã trải qua hơn một thế kỷ rưỡi với bao cơn bão táp của thiên nhiên và chiến tranh tàn phá, nhưng nhờ có kỹ thuật xây dựng khéo léo và vững chắc, Ngọ Môn vẫn đứng vững với thời gian để trở thành một trong những công trình kiến trúc cổ tiêu biểu nhất.
Ngọ Môn chia ra làm hai hệ thống:
Hệ thống nền đài:...