cherubtear24
New Member
Download Tiểu luận Điểm mới của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự miễn phí
Về thủ tục áp dụng, biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ cũng như các biện pháp bảo đảm khác được áp dụng trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình THA theo quy định tại khoản 1 Điều 68 LTHADS “Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hay yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng”. Khi ra quyết định áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ, cũng như biện pháp phong tỏa tài khoản, chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự. Việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự phải được lập biên bản mô tả chi tiết từng loại tài sản, giấy tờ và phải có chữ ký của chấp hành viên và đương sự. Trường hợp đương sự không ký thì phải có chứ ký của người làm chứng như thay mặt tổ dân phố, người hàng xóm Biên bản phải được lập thành hai bản, một bản lưu hồ sơ thi hành án và một bản giao cho đương sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, chấp hành viên phải ra một trong các quyết định sau:
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
Lời mở đầuTrước đây, Pháp lệnh thi hành án dân sự (PLTHADS) năm 2004 không quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành án (BPBĐTHA). Năm 2008, Luật thi hành án dân sự (LTHADS) được ban hành và đã giành hẳn Mục 1 Chương IV để quy định vể các BPBĐTHA, điều này cho thấy rõ tính cần thiết và quan trọng của các biện pháp này đối với công tác thi hành án. Một bản án, quyết định của Tòa án có được thi hành trên thực tế hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc đương sự có điều kiện thi hành án không. Tuy nhiên, khi đương sự có điều kiện thi hành án (có tài sản) thì chưa hẳn điều kiện đó sẽ được thi hành, nếu pháp luật không có các biện pháp bảo đảm. Vì họ có thể sẽ tẩu tán, hủy hoại tài sản mà họ đang có trước khi chấp hành viên tiến hành các biện pháp cưỡng chế. Do đó, việc quy định BPBĐTHA là hết sức cần thiết. Nhận thức được vai trò của BPBĐTHA trong công tác thi hành án dân sự, với mong muốn tìm hiểu thêm về biện pháp này, em đã quyết định chọn đề tài số 15: “ Điểm mới của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”.
Dù đã cố gắng, nhưng chắc hẳn bài viết còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Nội dung
I. Khái niệm và ý nghĩa biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
1. Khái niệm biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Chúng ta có thể hiểu BPBĐTHA là là biện pháp pháp lí đặt tài sản của người phải THA trong tình trạng bị hạn chế hay cấm sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn việc người phải THA tẩu tán, định đoạt tài sản trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ THA và đôn đốc họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ THA của mình do chấp hành viên áp dụng trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS.
2. Ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Việc áp dụng BPBĐTHA có các ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, ngăn chặn người phải THA tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA nên bảo đảm được hiệu lực của bản án, quyết định, quyền, lợi ích hợp pháp của người được THA và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ hai, đốc thúc người phải THA tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình. Bởi vì, khi đã áp dụng BPBĐTHA thì tài sản của người phải THA đã bị đặt trong tình trạng bị hạn chế hay bị cấm sử dụng, định đoạt, do vậy, họ không thể tẩu tán, hủy hoại tài sản hay trốn tránh việc THA và giải pháp có lợi hơn cả đối với họ là tự nguyện thi hành các nghĩa vụ của mình được xác định trong bản án, quyết định được đưa ra thi hành.
Thứ ba, việc áp dụng BPBĐTHA dân sự là tiền đề, là cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS sau này, bảo đảm hiệu quả của việc THADS. Sau khi bị áp dụng các BPBĐTHA dân sự nếu người phải THA không tự nguyện thi hành thì cơ quan THADS sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS nhằm buộc người phải THA phải thực hiện các nghĩa vụ của họ. Các tài sản của người phải THA đã bị đặt trong tình trạng bị hạn chế quyền sử dụng, định đoạt hay bị cấm định đoạt trước đây sẽ được xử lý để THA.
II. Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Các BPBĐTHA được quy định từ Điều 66 đến điều 69 Mục 1 Chương IV LTHADS. Đây là những quy định hoàn toàn mới so với những quy định trong pháp Luật thi hành án dân sự từ trước tới nay. Để kịp thời khắc phục những bất cập và tạo hành lang pháp lý cho chấp hành viên cơ quan THA thực thi nhiệm vụ. Luật THA đã bổ sung những quy định về BPBĐTHA thành một mục (Mục I chương IV), gồm những biện pháp sau: Phong tỏa tài khoản; Tạm giữ tài sản, giấy tờ và tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản của người phải thi hành án (quy định tại Điều 66).
Đây là những cơ sở pháp lý đầu tiên để chấp hành viên tiến hành những hoạt động THA nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA của người phải THA, đảm bảo các bản án, quyết định được thi hành một cách triệt để và hiệu quả. Để thực hiện các BPBĐTHA, LTHADS quy định chấp hành viên có quyền chủ động áp dụng các BPBĐTHA khi xét thấy cần thiết phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA hay trong trường hợp có văn bản yêu cầu áp dụng các BPBĐTHA của đương sự (có thể yêu cầu của người được THA, cũng có thể là yêu càu của người phải THA). Đồng thời, LTHADS còn quy định rõ, thủ tục, trình tự đối với từng BPBĐTHA, cụ thể như sau:
1. Biện pháp phong tỏa tài khoản
Biện pháp phong tỏa tài khoản thì trước đây được quy định là một biện pháp cưỡng chế (theo khoản 3 Điều 37 PLTHADS năm 2004). Tuy nhiên, theo tui quy định như vậy là chưa hợp lý. Thứ nhất, nó không phản ánh đúng với bản chất của việc phong tỏa tài khoản. Vì đây thực chất mới chỉ là biện pháp bảo đảm, chưa phải là biện pháp xử lý tài sản để THA. Thứ hai, về mặt pháp lý nó có sự mâu thuẫn, vì cùng một đối tượng là khoản tiền trong tài khoản lại có thể bị áp dụng hai biện pháp cưỡng chế. Đó là biện pháp phong tỏa tài khoản và biện pháp khấu trừ tài khoản được quy định tại khoản 1 Điều 37 PLTHADS. Vì vậy, LTHADS đã tách hai biện pháp này thành một biện pháp bảo đảm và một biện pháp cưỡng chế là hoàn toàn hợp lý.
Theo quy định tại Điều 67 LTHADS, chấp hành viên áp dụng biện pháp này trong trường hợp có căn cứ khẳng định người phải THA đang có tiền trong một tài khoản nhất định (thông tin về tài khoản, về số tiền trong tài khoản có thể do đương sự cung cấp hay do chấp hành viên xác định). Với mục đích nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải THA thì chấp hành viên có thể ra ngay quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải THA ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình THA. Khi ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự mà chỉ cần giao chơ cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải THA để thực thi. Khi giao quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên phải lập biên bản và yêu cầu cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải THA phải thực hiện ngay việc phong tỏa tài khoản trên. Hết thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên phải ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải THA được quy định tại khoản 1 Điều 71 LTHADS.
Nếu như trước đây, theo PLTHADS năm 2004, chấp hành viên chỉ được ra quyết định cưỡng chế nói chung và cưỡng chế bằng biện pháp phong tỏa tài khoản nói riêng khi đã hết thời hạn tự nguyện mà người phải THA không tự nguyện THA hay trong trường hợp cần ngăn chặn người phải THA có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hay trốn tránh việc THA (theo quy định tại khoản 2 Điều 7 PLTHADS năm 2004). Theo đó, chấp hành viên chỉ được áp dụng khoản 2 Điều 7 PLTHADS khi chứng minh được người phải THA đang có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hay ...