ctdesuong

New Member

Download Báo cáo Thực địa - Địa lý tại thành phố Đà Lạt miễn phí





Thực vật trên cao nguyên Lang Biang chủ yếu gồm những rừng ôn đới thuần nhất, rất điển hình là những quần Thông hai lá và Thông ba lá rộng mênh mông (đến hơn 180.000 ha). Cả hai loại rừng này đều có một sản lượng khá cao (ít nhất trên 10 m3/ ha/năm). Ngoài ra đều là rừng cây họ Dầu (đặc biệt là cây họ dầu trà beng) làm chứng cho những khu vực có khí hậu khô hạn hơn.
Ngoài ra ở đây còn có họ Hoà Thảo (Gramineae) và họ Lát (Cyperaceae) chiếm diện tích lớn. Họ Lan (Orchidaceae) rất đặc biệt về màu sắc và hình dáng với nhiều loại như Bạch lan, Hồng lan, Thanh lan Với 2 loài hoa mang tên Lang Bi-an: Dendrobium langbianense, Oberonia langbianensis
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

SEAN. Sản lượng hoa Đà Lạt hằng năm vào khoảng 540 triệu cành, trong đó xuất khẩu vào khoảng 33,3 triệu cành hoa.
Kiến trúc
"Tòa nhà" đầu tiên ở Đà Lạt là một đồn binh lợp lá vào năm 1898, tiếp theo
Hình 5: Biệt thự Đà Lạt.
(Nguồn:www.my.opera.com)
đó là nhà bằng gỗ lợp tôn của viên công sứ Pháp năm 1900. Hotel du Lac mở cửa vào năm 1907. Năm 1916 người Pháp cho xây dựng thêm Hotel du Langbian Palace. Đà Lạt thật sự trở thành thành phố khi người Pháp xây dựng thành phố theo đồ án thiết kế tổng thể của kiến trúc sư Ernest Hébrard. Năm 1933 kiến trúc sư Pineau trình bày một công trình nghiên cứu chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt. Đến năm 1940 kiến trúc sư Mondet thiết lập một đồ án mới, quay về với ý tưởng của Hébrard là bố trí các khu vực hành chánh và dân cư quanh hồ. Thế nhưng dự án này không được duyệt.
Đà Lạt có nhiều công trình xây dựng đặc sắc, phần nhiều mang đặc trưng của kiến trúc kiểu Pháp. Trong thời gian vừa qua toàn cảnh kiến trúc đô thị của thành phố Đà Lạt đã bị phá vỡ vì xây dựng thiếu quy hoạch đồng bộ, lấn chiếm làm nhà ở và cơi nới, xây cất vô lối ngay trong biệt thự. Nếu so với nhiều thành phố khác trong cả nước, Đà Lạt vẫn là một thành phố trẻ, nhưng đó lại là một thành phố có đồ án thiết kế theo kiểu cách phương Tây. Đà Lạt trước kia là một thành phố do người Pháp xây dựng cho người Pháp, và các đồ án thiết kế đều phải do Phủ toàn quyền quyết định, các kỹ sư, kiến trúc sư, các đoàn lên Đà Lạt nghiên cứu về việc chỉnh trang, xây dựng đều được tuyển chọn kỹ lưỡng và nhất thiết phải có trình độ chuyên môn giỏi.
Trên đây là những nét khái quát chung về thành phố Đà Lạt. Trong chuyên sđin thực tế lần này nhóm chúng em được trao nhiệm vụ nghiên cứu về Langbiang, Chợ Đà Lạt và tộc người Lạch thuộc dân tộc Cơ Ho. Dưới đây chúng em xin được trình bày các điểm này.
Phần II: Nội dung chính
Cao Nguyên Langbiang
1. Vài nét khái quát về cao nguyên Langbiang:
Cao nguyên Lâm Viên (còn gọi: cao nguyên Lang Biang, cao nguyên Lang Bian, cao nguyên Đà Lạt, bình sơn Đà Lạt) thuộc Tây Nguyên, Việt Nam với độ cao trung bình khoảng 1.500 m (4.920 ft). Phía nam cao nguyên có thành phố Đà Lạt. Phía đông và đông nam dốc xuống thung lũng sông Đa Nhim, tây nam hạ đột ngột xuống cao nguyên Di Linh. Diện tích khoảng 1.080km². Địa hình đồi núi trập trùng độ dốc dao động 8-10°. Tại đây có các đỉnh núi cao như Bi Doup (2.287 m), Lang biang (hay Chư Cang Ca, 2.167 m)... Nước sông trên cao nguyên chảy chậm, những chỗ bị chặn lại toả rộng thành hồ như hồ Xuân Hương, hồ Đan Kia (Suối Vàng), thác Cam Ly… rìa cao nguyên có các thác lớn như Pren (Prenn), Gù Gà, Ankrôet... Phong cảnh đẹp, khí hậu trong lành, mát mẻ phù hợp cho trồng rau và hoa quả ôn đới quanh năm, có rừng thông ba lá và thông năm lá diện tích lớn.
Hình 6: Núi Langbiang-Cao nguyên Langbiang.
Nguồn: (www.hanhdungtourist.com)
Ở phía bắc cao nguyên Lang Biang là dãy núi Bà (Lang Biang) hùng vĩ, cao 2.169 m, kéo dài theo trục Đông Bắc - Tây Nam từ suối Đa Sar (đổ vào Đa Nhim) đến Đa Me (đổ vào Đạ Đờng).
Ngày nay núi Lang Bian thuộc xã Lát huyện Lạc Dương cách thành phố Đà Lạt khoảng 12km về phía Bắc. Dãy Langbiang gồm 3 dãy núi chính: Langbiang, ông Khổng (huyện Lạc Dương), và rặng Bidúp ở Đơn Dương giáp với Thuận Hải.
Huyền thoại Langbiang:
Trong các truyền thuyết thần thoại của các dân tộc ít người ở Đà Lạt, ba rặng núi Lang Bian (Lâm Viên– Núi Bà), lớn và Bidúp quan hệ rất mật thiết với nhau. LangBiang ghi dấu một mối tình chung thủy đã đi vào huyền thoại.
Ngày xưa tại làng La Ngư Thượng (Đà Lạt bây giờ) có chàng K’Lang, tù trưởng bộ tộc Lạt, thương người con gái tên H’Biang, con tù trưởng người Chil. Sau lần K’Lang cứu H’Biang thoát khỏi nguy hiểm, họ đã đem lòng yêu nhau nhưng do lời nguyền giữa hai dòng tộc mà H’Biang không thể cưới K’Lang làm chồng. Vượt qua tục lệ khắt khe của hai bộ tộc, họ vẫn đến với nhau. Họ trở thành chồng vợ rồi bỏ đến một đỉnh núi cao ngất để sinh sống. Kết thúc câu chuyện, H’Biang chết do đỡ mũi tên có tẩm thuốc độc của buôn làng nhắm bắn K’Lang. Đau buồn khôn xiết, K’Lang đã khóc rất nhiều, nước mắt của chàng tuôn thành
Hình 7: Biểu tượng trên đỉnh Langbiang.
Nguồn:( www.thugian.com)
suối lớn, ngày nay gọi Dankia (Suối Vàng). Sau cái chết của hai người, cha của H’Biang hối hận đứng ra nhận việc thống nhất các bộ tộc có tên là K’Ho. Ngọn núi cao nơi chàng K’Lang và nàng H’Biang chết được đặt tên là Langbiang – tên ghép của đôi trai gái để tưởng nhớ đến hai người và tình yêu chung thủy của họ.
Ba dãy núi Lang Bian, Khổng Lồ, Bidúp không nằm trong địa phận Đà Lạt nhưng lịch sự của nó gắn liền với lịch sử phát triển của các dân tộc người thiểu số ở đây: K’ho Lạt, K’ho Chil… Ngày nay nếu có dịp du khách đứng trên đỉnh Lang Bian sẽ thấy người Chil, Lạt đang âm thầm lặng lẽ bên dòng suối hay ở các thung lũng, ven những đồi xanh.
Mặt khác, Langbiang còn gắn liền với lịch sử phát triển của cao nguyên Langbiang và thành phố Đà Lạt. Theo như tài liệu ghi chép lại, nhà khoa học – bác sĩ Yersin đã có công khám phá ra cao nguyên này vào ngày 21/06/1893; bác sĩ Tardiff nghiên cứu địa hình, đất đai, thảo mộc… vào năm 1899 để thuyết phục Toàn quyền Đông Dương Doumer chọn Đà Lạt thay Dankia và việc Toàn quyền Dông Dương Doumer thám du Đà Lạt năm 1899 để sau đó quyết định chọn Đà Lạt là thành phố nghỉ dưỡng và Langbiang cũng được biết đến từ đây.
Khi nói về lịch sử của Langbiang chúng ta cũng không thể quên công của các dân tộc bản địa Đà Lạt, các đoàn dân cư người Việt lên cao nguyên từ cuối thế kỉ 18 và nhất là Nguyễn Thông người đầu tiên thám hiểm sơn quốc và phát hiện ra Nam Tây Nguyên (1862 – 1877). Ông đã dâng sớ xin lập đồn điền khai khẩn vùng thượng du và vua Tự Đức đã đồng ý cho Nguyễn Thông khai thác sơn quốc, nhưng sau đó thực dân Pháp ở Nam Kỳ buộc vua Tự Đức phải hủy bỏ công trình này vào năm 1877.
Langbiang là hình ảnh sống động trong lòng mỗi người dân thành phố Đà Lạt cũng như đông đảo du khách khi trong đời đã được một lần chiêm ngưỡng nó.
3. Đặc điểm tự nhiên:
3.1. Đặc điểm địa chất, địa mạo:
Địa chất:
Ngay buổi sơ khai tìm hiểu về cao nguyên Lang Biang, có lẽ do bậc thang địa hình Bảo Lộc, đèo Prenn… nên các nhà địa chất nước ngoài đã nghiên cứu và cho rằng nó là một khối nâng. E. Saurin xác định các trầm tích cổ nhất (kỷ Cambri-Silua- cách đây 400-600 triệu năm). Sau này, các nhà địa chất Việt Nam và Nga đã xác nhận lớp trầm tích cổ nhất có tuổi Jura (cách nay 137-195 triệu năm). Các trầm tích tuổi này có nguồn gốc lục địa. Cuối kỷ Jura, đầu Kreta (cách nay trên 130 triệu năm), hoạt động kiến tạo khu vực bắt đầu nâng các điạ tầng của nó lên cao dần. Theo các vết nứt kiến tạo, các thành hệ phun trào cùng các thành hệ xâm nhập đã chia cắt, làm biến dạng, biến chất và cả bao phủ lên các trầm tích có trước. Các thành hệ phun trào này mà thành phần chủ yếu là đaxit, anđêzit, tuf cùng các trầm tích đa khoáng đã tạo dựng nên dãy Lang Biang hùng vĩ.
Hình 8: Kh...
 

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Top