Download Đề tài Tác động của việc ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO tới ngành thép Việt Nam
Ngày 4 tháng 9 năm 2007, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 145/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam giai đọan 2007 – 2015, có xét đến năm 2025. Trên cơ sở dựa vào dự báo nhu cầu thép thành phẩm Việt Nam năm 2010 là 11-12 triệu tấn; năm 2015 là 15-16 triệu tấn; năm 2025 khoảng 24-25 triệu tấn, quy hoạch đưa ra mục tiêu giai đoạn 2007-2015 cần đầu tư khoảng 8 tỷ USD phát triển ngành thép, đến năm 2015 Việt Nam xuất khẩu 0,5 triệu tấn thép các loại. Mục tiêuđến năm 2010, Việt Nam sẽ luyện được 3,5 triệu tấn phôi/năm, và sẽ đạt đến 12-15 triệu tấn/năm vào năm 2025. Đặc biệt, sản xuất thép thành phẩm dự kiến sẽ đạt 6,3 -6,5 triệu tấn vào năm 2010; 11-12 triệu tấn năm 2015; 19-22 triệu tấn năm 2025.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Hiện nay thành phần tham gia sản xuất và gia công chế biến thép ở nước ta rất đa dạng, bao gồm nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Ngoài Tổng công ty thép Việt nam và các cơ sở quốc doanh thuộc địa phương và các ngành, còn có các liên doanh, các công ty cổ phần, công ty100% vốn nước ngoài và các công ty tư nhân. Tính đến năm 2002, Việt Nam có khoảng 50 doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng ( chỉ tính các cơ sở có công suất hơn 5.000 tấn/năm), trong đó có 12 dây chuyền cán, công suất từ 100.000 – 300.000 tăn/năm.
Sau gần 50 năm hình thành và phát triển, không phải là thời gian dài cho một ngành công nghiệp đòi hỏi một trình độ công nghệ cao nhất định, ngành thép Việt Nam vẫn còn non trẻ so với công nghiệp thép thế giới. Nhưng chúng ta cũng phải ghi nhận những thành tựu mà nó đã đạt được, đặc biệt trong 10 năm đổi mới 1995 – 2005, đạt được một số các chỉ tiêu sau:
-Luyện thép lò điện đạt 500.000 tấn/năm.
- Công suất cán thép đạt 2,6 triệu tấn/năm (kể cả các đơn vị ngoài Tổng công ty thép Việt Nam )
- Luyện cán thép đạt 470.000 tấn/năm.
- Cán thép đạt 760.000 tấn/năm.
- Sản phẩm thép thô (phoi và thỏi ) huy đọng được 78% công suất thiết kế.
-Thép cán dài (thép tròn, thép thanh, thép hình nhỏ và vừa) đạt tỷ lệ huy động 50% công suất.
-Sản phẩm thép gia công sau cán (ống hàn, tôn mạ các loại) huy động 90% công suất.
thực trạng của ngành thép Việt nam
Tình hình sản xuất trong nước
Cơ cấu sản phẩm của ngành thép hiện nay
Hiên nay ngành thép Việt Nam mới chỉ sản xuất được các loại thép tròn, thép vằn (10 – 40mm), thép cuộn (6 -10 mm), thép hình cỡ nhỏ, cỡ vừa (gọi chung là sản phẩm dài) phục vụ cho xây dựng và gia công, sản xuất ống hàn, tôn mạ, hình uốn nguội, cắt xẻ…từ sản phẩm dẹt nhập khẩu. Các sản phẩm dài trong nước cũng phần lớn được cán từ phôi thép nhập khẩu khả năng tự sản xuất phôi thép trong nước còn rất nhỏ bé, chỉ đáp ứng được khoảng 28%, còn 72% nhu cầu phôi thép cho các nhà máy đều phải nhập khẩu từ bên ngoài.
Trong nước chưa có nhà máy cán thép dẹt (tấm, lá cán nóng, cán nguội). Chưa có cơ sở tập trung chuyên sản xuất đặc biệt phục vụ chế tạo cơ khí. Hiện nay chỉ mới sản xuất 1 số chủng loại thép đặc biệt với quy mô nhỏ ở một số nhà máy cơ khí và nhà máy thép của tổng công ty thép Việt Nam.
Nhìn chung, do hạn chế về vốn đầu tư và do thị trường tiêu thụ thép trong nước còn quá nhỏ bé, ngành hép Việt Nam mới chỉ tập trung đầu tư và sản xuất các sản phẩm thép dài để đáp ứng nhu cầu cấp bách trong nước. Đây là các sản phẩm có thuận lợi về thị trường cần vốn đầu tư ít, thời gian xây dựng nhà máy ngắn, hiệu quả đầu tư tương đối cao, thu hút được nhiều đối tác nước ngoài bỏ vốn liên doanh. Đối với các sản phẩm thép dẹt do nhu cầu thị trường thấp, trong khi để đảm bảo hiệu quả thì yêu cầu công suất nhà máy phải đủ lớn, cần vốn đầu tư lớn, hiệu quả đầu tư chưa cao nên ít hẫp dẫn các đối tác nước ngoài đầu tư liên doanh, bản thân ngành thép hiện nay thiếu đồng bộ, mất cân đối giữa phôi thép và cán thép, giữa cơ cấu mặt hàng ( thép xây dựng và thép phục vụ chế tạo cơ khí ) và cơ cấu chất lượng sản phẩm.
Trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị
Ngành thép Việt Nam hiện nay có năng lực sản xuất thực tế khoảng 2,6 triệu tấn thép cán/năm (thép xây dựng ); 0,5 – 0,6 triệu tấn phôi thép bằng lò điện (phôi thép vuông và cả thỏi đúc cỡ nhỏ ). Về trình độ công nghệ chia làm 4 mức sau:
Loại tương đối hiện đại: Gồm các dây chuyền cán thép liên tục của 2 công ty liên doanh VINA KYOEI, VPS và một số dây chuyền cán thép mới sẽ xây dựng trong thời gian gần đây.
Loại trung bình: Bao gồm các dây chuyền cán bán liên tục như Vinausteel, NatSteelvina, Tây Đô, Biên Hoà, Thủ Đức (SSC), Gia Sàng, Lưu Xá (TISCO) và các công ty cổ phần, công ty tư nhân (Vinatafong, Nam Đô, HảI Phòng…)
Loại lạc hậu: bao gồm các dây chuyền cán thủ công mini của các nhà máy Nhà Bè, Thủ Đức, Tân Thuận, Thép Đà Nẵng, Thép Miền Trung Và các cơ sở khác ngoài Tổng công ty thép Việt Nam.
Loại rất lạc hậu: Gồm các dây chuyền cán thép mini có công suất nhỏ (<20.000 tấn/năm).
Nguyên vật liệu
Để tiến hành sản xuất, những nguyên liệu cần thiết bao gồm qặng sắt là nguyên liệu chính, các tổ hợp các bon, cùng một số các nhiên liệu như điện, chất đốt (chủ yếu là than cốc ). ở Việt Nam các nguồn nguyên liệu này không hiếm song khả năng khai thác thì lại bị hạn chế, dẫn đến chúng ta vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào. Việt Nam chưa tự sản xuất được phôi thép, thép cán dẹt, phần lớn phải nhập khẩu.
Rõ ràng về tiềm lực phát triển, ngành thép Việt Namvẫn hơn hẳn nhiều nước trên thế giới. Lại có nguồn nhân công rẻ, nhưng chúng ta vẫn chưa có năng lực khai thác được hết khả năng vốn có của mình.
Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm cán thép xây dựng của Tổng công ty thép Việt Nam và khối liên doanh nhìn chung không thua kém sản phẩm nhập khẩu.Chỉ có các sản phẩm của cơ sở sản xuất nhỏ (<20.000 tấn/năm), đặc biệt là các cơ sở có khâu luyện thép thủ công chất lượng kém và không đạt yêu cầu.
Đánh giá thực trạng sản xuất thép Việt Nam
Những năm qua tuy ngành thép đã được đầu tư đáng kể và có bước phát triển tương đối khá mạnh (cả quốc doanh và ngoài quốc doanh), đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, có tiềm lực gấp hàng chục lần so với năm 1990 và đạt sản lượng trên 1 triệu tấn/năm. Song ngành thép vẫn còn trong tình trạng kém phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thể hiện qua các mặt:
Trang thiết bị có qui mô nhỏ, phổ biến thuộc thế hệ cũ, lạc hậu, trình độ công nghệ và mức độ tự động hoá thấp. Trong khi trình độ công nghệ sản xuất thép trên thế giới đã đạt được trình độ công nghệ Fastmelt. Fastmelt là công nghệ quay lò khép kín với ưu điểm là tiết kiệm năng lượng và tận thu thép trong quặng và không cần dùng than cốc. Đây được coi là một trong những mô hình luyệ thép hiện đại nhất hiện nay.
Cơ cấu mặt hàng sản xuất hẹp, đơn điệu (mới chỉ cán các sản phẩm dài cỡ nhỏ và vừa với mác thép phổ biến là cácbon thấp). Lại chủ yếu là các sản phẩm thép phục vụ xây dựng, dẫn đến thừa một cách tương đối các sản phẩm này trên thi trường. Trong khi các dòng sản phẩm thép khác lại lâm vào tình trạng thiếu trầm trọng, gây mất cân đối cơ cấu sản phẩm của ngành. Đây là một trong những yếu điểm trong quá trinh phát triển ngành thép .
Năng lực sản xuất phôi thép quá nhỏ bé, các nhà máy và cơ sở cán thép còn phụ thuộc nhiều vào phôi thép nhập khẩu. Toàn bộ sản phẩm cán dẹt trong nước chưa tự sản xuất được mà hoàn toàn phải dựa vào nhập khẩu.
Chi phí sản xuất còn cao, năng suất lao động thấp, số lượng lao động quá đông, giá thành không ổn định (do lệ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu)nên tính cạnh tranh không cao. Khả năng sản xuất sản phẩm thép còn rất hạn chế.
Nhìn một cách tổng quan, ngành thép Việt Nam v
Download Đề tài Tác động của việc ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO tới ngành thép Việt Nam miễn phí
Ngày 4 tháng 9 năm 2007, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 145/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam giai đọan 2007 – 2015, có xét đến năm 2025. Trên cơ sở dựa vào dự báo nhu cầu thép thành phẩm Việt Nam năm 2010 là 11-12 triệu tấn; năm 2015 là 15-16 triệu tấn; năm 2025 khoảng 24-25 triệu tấn, quy hoạch đưa ra mục tiêu giai đoạn 2007-2015 cần đầu tư khoảng 8 tỷ USD phát triển ngành thép, đến năm 2015 Việt Nam xuất khẩu 0,5 triệu tấn thép các loại. Mục tiêuđến năm 2010, Việt Nam sẽ luyện được 3,5 triệu tấn phôi/năm, và sẽ đạt đến 12-15 triệu tấn/năm vào năm 2025. Đặc biệt, sản xuất thép thành phẩm dự kiến sẽ đạt 6,3 -6,5 triệu tấn vào năm 2010; 11-12 triệu tấn năm 2015; 19-22 triệu tấn năm 2025.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
ạn có tốc độ tăng trưởng cao nhất.Hiện nay thành phần tham gia sản xuất và gia công chế biến thép ở nước ta rất đa dạng, bao gồm nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Ngoài Tổng công ty thép Việt nam và các cơ sở quốc doanh thuộc địa phương và các ngành, còn có các liên doanh, các công ty cổ phần, công ty100% vốn nước ngoài và các công ty tư nhân. Tính đến năm 2002, Việt Nam có khoảng 50 doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng ( chỉ tính các cơ sở có công suất hơn 5.000 tấn/năm), trong đó có 12 dây chuyền cán, công suất từ 100.000 – 300.000 tăn/năm.
Sau gần 50 năm hình thành và phát triển, không phải là thời gian dài cho một ngành công nghiệp đòi hỏi một trình độ công nghệ cao nhất định, ngành thép Việt Nam vẫn còn non trẻ so với công nghiệp thép thế giới. Nhưng chúng ta cũng phải ghi nhận những thành tựu mà nó đã đạt được, đặc biệt trong 10 năm đổi mới 1995 – 2005, đạt được một số các chỉ tiêu sau:
-Luyện thép lò điện đạt 500.000 tấn/năm.
- Công suất cán thép đạt 2,6 triệu tấn/năm (kể cả các đơn vị ngoài Tổng công ty thép Việt Nam )
- Luyện cán thép đạt 470.000 tấn/năm.
- Cán thép đạt 760.000 tấn/năm.
- Sản phẩm thép thô (phoi và thỏi ) huy đọng được 78% công suất thiết kế.
-Thép cán dài (thép tròn, thép thanh, thép hình nhỏ và vừa) đạt tỷ lệ huy động 50% công suất.
-Sản phẩm thép gia công sau cán (ống hàn, tôn mạ các loại) huy động 90% công suất.
thực trạng của ngành thép Việt nam
Tình hình sản xuất trong nước
Cơ cấu sản phẩm của ngành thép hiện nay
Hiên nay ngành thép Việt Nam mới chỉ sản xuất được các loại thép tròn, thép vằn (10 – 40mm), thép cuộn (6 -10 mm), thép hình cỡ nhỏ, cỡ vừa (gọi chung là sản phẩm dài) phục vụ cho xây dựng và gia công, sản xuất ống hàn, tôn mạ, hình uốn nguội, cắt xẻ…từ sản phẩm dẹt nhập khẩu. Các sản phẩm dài trong nước cũng phần lớn được cán từ phôi thép nhập khẩu khả năng tự sản xuất phôi thép trong nước còn rất nhỏ bé, chỉ đáp ứng được khoảng 28%, còn 72% nhu cầu phôi thép cho các nhà máy đều phải nhập khẩu từ bên ngoài.
Trong nước chưa có nhà máy cán thép dẹt (tấm, lá cán nóng, cán nguội). Chưa có cơ sở tập trung chuyên sản xuất đặc biệt phục vụ chế tạo cơ khí. Hiện nay chỉ mới sản xuất 1 số chủng loại thép đặc biệt với quy mô nhỏ ở một số nhà máy cơ khí và nhà máy thép của tổng công ty thép Việt Nam.
Nhìn chung, do hạn chế về vốn đầu tư và do thị trường tiêu thụ thép trong nước còn quá nhỏ bé, ngành hép Việt Nam mới chỉ tập trung đầu tư và sản xuất các sản phẩm thép dài để đáp ứng nhu cầu cấp bách trong nước. Đây là các sản phẩm có thuận lợi về thị trường cần vốn đầu tư ít, thời gian xây dựng nhà máy ngắn, hiệu quả đầu tư tương đối cao, thu hút được nhiều đối tác nước ngoài bỏ vốn liên doanh. Đối với các sản phẩm thép dẹt do nhu cầu thị trường thấp, trong khi để đảm bảo hiệu quả thì yêu cầu công suất nhà máy phải đủ lớn, cần vốn đầu tư lớn, hiệu quả đầu tư chưa cao nên ít hẫp dẫn các đối tác nước ngoài đầu tư liên doanh, bản thân ngành thép hiện nay thiếu đồng bộ, mất cân đối giữa phôi thép và cán thép, giữa cơ cấu mặt hàng ( thép xây dựng và thép phục vụ chế tạo cơ khí ) và cơ cấu chất lượng sản phẩm.
Trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị
Ngành thép Việt Nam hiện nay có năng lực sản xuất thực tế khoảng 2,6 triệu tấn thép cán/năm (thép xây dựng ); 0,5 – 0,6 triệu tấn phôi thép bằng lò điện (phôi thép vuông và cả thỏi đúc cỡ nhỏ ). Về trình độ công nghệ chia làm 4 mức sau:
Loại tương đối hiện đại: Gồm các dây chuyền cán thép liên tục của 2 công ty liên doanh VINA KYOEI, VPS và một số dây chuyền cán thép mới sẽ xây dựng trong thời gian gần đây.
Loại trung bình: Bao gồm các dây chuyền cán bán liên tục như Vinausteel, NatSteelvina, Tây Đô, Biên Hoà, Thủ Đức (SSC), Gia Sàng, Lưu Xá (TISCO) và các công ty cổ phần, công ty tư nhân (Vinatafong, Nam Đô, HảI Phòng…)
Loại lạc hậu: bao gồm các dây chuyền cán thủ công mini của các nhà máy Nhà Bè, Thủ Đức, Tân Thuận, Thép Đà Nẵng, Thép Miền Trung Và các cơ sở khác ngoài Tổng công ty thép Việt Nam.
Loại rất lạc hậu: Gồm các dây chuyền cán thép mini có công suất nhỏ (<20.000 tấn/năm).
Nguyên vật liệu
Để tiến hành sản xuất, những nguyên liệu cần thiết bao gồm qặng sắt là nguyên liệu chính, các tổ hợp các bon, cùng một số các nhiên liệu như điện, chất đốt (chủ yếu là than cốc ). ở Việt Nam các nguồn nguyên liệu này không hiếm song khả năng khai thác thì lại bị hạn chế, dẫn đến chúng ta vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào. Việt Nam chưa tự sản xuất được phôi thép, thép cán dẹt, phần lớn phải nhập khẩu.
Rõ ràng về tiềm lực phát triển, ngành thép Việt Namvẫn hơn hẳn nhiều nước trên thế giới. Lại có nguồn nhân công rẻ, nhưng chúng ta vẫn chưa có năng lực khai thác được hết khả năng vốn có của mình.
Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm cán thép xây dựng của Tổng công ty thép Việt Nam và khối liên doanh nhìn chung không thua kém sản phẩm nhập khẩu.Chỉ có các sản phẩm của cơ sở sản xuất nhỏ (<20.000 tấn/năm), đặc biệt là các cơ sở có khâu luyện thép thủ công chất lượng kém và không đạt yêu cầu.
Đánh giá thực trạng sản xuất thép Việt Nam
Những năm qua tuy ngành thép đã được đầu tư đáng kể và có bước phát triển tương đối khá mạnh (cả quốc doanh và ngoài quốc doanh), đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, có tiềm lực gấp hàng chục lần so với năm 1990 và đạt sản lượng trên 1 triệu tấn/năm. Song ngành thép vẫn còn trong tình trạng kém phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thể hiện qua các mặt:
Trang thiết bị có qui mô nhỏ, phổ biến thuộc thế hệ cũ, lạc hậu, trình độ công nghệ và mức độ tự động hoá thấp. Trong khi trình độ công nghệ sản xuất thép trên thế giới đã đạt được trình độ công nghệ Fastmelt. Fastmelt là công nghệ quay lò khép kín với ưu điểm là tiết kiệm năng lượng và tận thu thép trong quặng và không cần dùng than cốc. Đây được coi là một trong những mô hình luyệ thép hiện đại nhất hiện nay.
Cơ cấu mặt hàng sản xuất hẹp, đơn điệu (mới chỉ cán các sản phẩm dài cỡ nhỏ và vừa với mác thép phổ biến là cácbon thấp). Lại chủ yếu là các sản phẩm thép phục vụ xây dựng, dẫn đến thừa một cách tương đối các sản phẩm này trên thi trường. Trong khi các dòng sản phẩm thép khác lại lâm vào tình trạng thiếu trầm trọng, gây mất cân đối cơ cấu sản phẩm của ngành. Đây là một trong những yếu điểm trong quá trinh phát triển ngành thép .
Năng lực sản xuất phôi thép quá nhỏ bé, các nhà máy và cơ sở cán thép còn phụ thuộc nhiều vào phôi thép nhập khẩu. Toàn bộ sản phẩm cán dẹt trong nước chưa tự sản xuất được mà hoàn toàn phải dựa vào nhập khẩu.
Chi phí sản xuất còn cao, năng suất lao động thấp, số lượng lao động quá đông, giá thành không ổn định (do lệ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu)nên tính cạnh tranh không cao. Khả năng sản xuất sản phẩm thép còn rất hạn chế.
Nhìn một cách tổng quan, ngành thép Việt Nam v