Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

LỜI MỞ ĐẦU

Như chúng ta đã biêt, ở những nước đang phát triển như nước ta, với đặc trưng là nền kinh tế phát triển sôi động cùng với việc gia tăng nhanh dân số khiến cho nhu cầu về nhà ở trở nên bức thiết. Vì vậy, trong những năm gần đây, thị trường bất động sản luôn diễn biến phức tạp, đặc biệt về vấn đề cung cầu, giá bất động sản bị đẩy lên mức quá cao so với giá trị thực của nó, các nhà đầu cơ trục lợi trong khi đó những người có thu nhập thấp khó có cơ hội mua được nhà… Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do việc hệ thống pháp luật nước ta điều chỉnh vấn đề này còn rất nhiều hạn chế, cộng với tình trạng quản lý lỏng lẻo, nên đất đai chỉ tập trung trong tay một số người giàu có đầu cơ đất đai với mục đích kiếm lời. Vì vậy để khắc phục tình trạng trên không có cách nào khác là sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh hiệu quả vấn đề nhà đất.
Nhận thức được tính cấp thiết của đề tài trong thời kỳ hiện nay, em quyết định chọn đề tài “Những bất cập trong việc áp dụng các quy định của thuế nhà đất hiện hành và phương hướng hoàn thiện” làm đề tài cho bài tập Luật tài chính nhóm tháng 2 của mình. Do nhận thức về vấn đề này còn nhiều hạn chế, bài tập của chúng em chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Mong các thầy cô giúp đỡ! Chúng em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về thuế nhà đất
Ở Việt nam tuy chưa có loại thuế nào có tên gọi là thuế tài sản nhưng thực tế đã tồn tại một số loại thuế có mang tính chất của thuế đánh vào quyền sở hữu hay quyền quản lý, sử dụng một số tài sản, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, thuế trước bạ là những loại thuế có tính chất của thuế tài sản. Tuy nhiên cũng cần phái thấy tính chất đặc biệt của các loại thuế này liên quan đến đối thượng chịu thuế là đất đai. Về mặt pháp lý, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, các tổ chức và cá nhân được giao đất chỉ có quyền quản lý, sử dụng đật, không có quyền sở hữu đất. Vậy đất đai có phải là một loại tài sản trong giao dịch dân dự hay không và thuế đánh vào loại tài sản này có phải là thuế tài sản hay không trả lời câu hỏi này hiện còn nhiều ý kiến trái ngược nhau. Dựa trên quyền sở hữu toàn dân về đất đai mà nhiều người cho rằng đất đai không phải là đối tượng của giao dịch dân dự và loại thuế đánh vào đất không có tính chất của thuế tài sản. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì trên thực tế đất đai vẫn được chuyển nhượng và thuế đánh vào quyền chiếm hữu và sử dụng đất vẫn tồn tại.
Thuế đất là một trong những loại thuế ra đời sớm nhất trong trong lịch sử thuế khóa. Thuế thu vào đất đai được coi là loại thuế tài sản phổ biến ở nhiều quốc gia vì đất đai dễ nhận biết và quản lý. Hiện nay, nhiều quốc gia coi trọng việc đánh thuế nhà, đất nhằm góp phần khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý.
Cùng với các sắc thuế khác đánh vào tài sản, thuế nhà, đất là nguồn thu chủ yếu của ngân sách địa phương, nhất là ở các quốc gia mà Nhà nước chưa có điều kiện quản lý thu nhập của cá nhân, tổ chức một cách hiệu quả. Ở Việt Nam hiện nay, thuế đối với đất đai bao gồm thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế nhà, đất. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tui chỉ đề cập tới sắc thuế được định danh là thuế nhà, đất trong hệ thống pháp luật thuế hiện hành.
Bắt đầu giai đoạn đổi mới kinh tế, nhà nước đã rất chú trọng việc cải cách hệ thống pháp luật thuế. Pháp lệnh thuế nhà, đất đã được ban hành ngày 29/6/1991(sau đó được thay thế bằng Pháp lệnh thuế nhà, đất ngày 31/7/1992 và sửa đổi ngày 19/5/1994. Theo các văn bản này, thuế nhà, đất là loại thuế thu vào việc sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình và nhà. Mặc dù được định danh là Pháp lệnh thuế nhà, đất nhưng nội dung pháp lệnh này chỉ quy định thu thuế đối với đất ở, đất xây dựng công trình mà tạm thời chưa quy định thu thuế đối với nhà. Do đó, đối tượng nộp thuế theo quy định của Pháp lệnh thuế nhà, đất chỉ bao gồm các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất ở và đất xây dựng công trình. Quyền sử dụng đất này có thể do được Nhà nước giao hay do được chuyển đổi, chuyển nhượng, được thừa kế hay được sử dụng một cách hợp pháp. Thuế nhà, đất được thu hàng năm, có tính chất là thuế thu với chủ thể sử dụng đất phi nông nghiệp. Bên cạnh nhu cầu động viên một phần thu nhập của người sử dụng đất nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, chính sách thuế này còn khuyến khích việc sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả quỹ đất ở, đất xây dựng công trình, hạn chế việc chuyển quỹ đất sản xuất nông nghiệp sang xây dựng nhà ở.
Thuế nhà đất là loại thuế thu vào việc sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình và nhà. Việc thu thuế nhà đất là nhằm mục đích quản lý Nhà nước đối với việc sử dụng đất ở, khuyến khích tổ chức cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, phụ hợp với luật đất đai, động viên sự đóng góp của chủ sở hữu nhà và người sử dụng nhà, đất vào ngân sách Nhà nước.
1) Đối tượng nộp thuế nhà đất
Đối tượng nộp thuế đất là các tổ chức và cá nhân có quyền sử dụng đất ở và đất xây dựng công trình bao gồm tất cả các cơ quan ngoại giao, các tổ chức quốc tế, các cá nhân nước ngoài sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình. Quy định này của pháp luật thể hiện nguyên tắc là các tổ chức, cá nhân nào có quyền sử dụng các loại đất trên thì phải nộp thuế. Quyền sử dụng đất này có thể do được Nhà nước giao hay do được chuyển đổi, chuyển nhượng, được thừa kế hay được sử dụng hợp pháp.Trường hợp đất còn có tranh chấp hay chưa xác định được quyền sử dụng đất thì tổ chức, cá nhân đang trực tiếp sử dụng đất là đối tượng nộp thuế đất.
Về nguyên tắc, mọi loại đất được đưa vào sử dụng dưới bất kì hình thức và mục đích nào đều là đối tượng chịu thuế sử dụng đất. Và như vậy, trừ các loại đất nông nghiệp thuộc đối tượng chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp, đất thuộc diện chịu thuế tài nguyên, các loại đất còn lại thuộc đối tượng chịu thuế đất theo quy định của pháp lệnh thuế nhà đất .
Tuy nhiên nhà nước không thu thuế đất đối với những loại đất được sử dụng vào mục đích công cộng, phúc lợi hay từ thiện không có mục đích kinh doanh hay để ở như đất làm cầu công, đường xá, đê điều công trình thủy lợi, công viên, bệnh viện, trường học vv… hay đất chuyên dùng vào việc thờ cúng của các tôn giáo, các tổ chức không có mục đích kinh doanh hay để ở, như các di tích lịch sử, nhà thờ, đền, chùa.
2) Căn cứ tính thuế và mức thuế
Căn cứ tính thuế đất là diện tích, hạng đất và mức thuế trên một đơn vị diện tích.
Diện tích đất để tính thuế đất ở, đất xây dựng, công trình bao gồm: Diện tích đất xây dựng nhà, công trình và các diện tích khác trong khuôn viên đất ở, quanh công trình kiến trúc và cả diện tích đất trống. Việc xác định diện tích đất tính thuế căn cứ vào diện tích được ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì diện tích đất tính thuế căn cứ vào diện tích đất thực giao hay thực tế đang sử dụng.
Hạng đất tính thuế ở cách phân loại đô thị hay dựa trên vị trí của đất ở, đất xây dựng công trình ở từng vùng, khu vực đô thị hay nông thôn.
Về nguyên tắc, đất ở, đất xây dựng công trình thuộc thành phố, thị xã, thị trấn mức thuế đất bằng 03 lần đến 32 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp của hạng đất cao nhất trong vùng; đất thuộc vùng ven đô thị, ven trục giao thông chính, mức thuế đất bằng 1,5 đến 2,5 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp của hạng đất cao nhất trong vùng; đất thuộc vùng nông thôn đồng bằng, trung du, miền núi, mức thuế đất bằng 1 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp ghi thu bình quân trong xã.
Dựa vào các quy định trên của Pháp lệnh, Nghị định số 94/CP ngày 25/8/1994 của Chính phủ đã quy định cụ thể mức thuế đất cho một đơn vị diện tích tại từng vị trí từng loại đường phố ở từng đô thị; đất thuộc vùng ven đô thị, ven đầu mối giao thông và ven trục giao thông chính; đất thuộc vùng nông thôn, đồng bằng, trung du và miền núi.
II. Những bất cập về thuế nhà đất
Pháp lệnh thuế nhà đất năm 1992 được sửa đổi bổ sung năm 1994 và hiện nay vẫn được áp dụng. Ra đời và tồn tại gần 20 năm, có thể nói đây là sắc thuế ít có sự sửa đổi, bổ sung nhất so với các sắc thuế khác trong hệ thống pháp luật hiện hành. Số thuế thu trên thực tế hiện nay chưa phản ánh đúng khả năng tạo nguồn thu mà thuế nhà, đất có thể đem lại cho ngân sách nhà nước. Do vậy, cần thiết phải sửa đổi những quy định đang ngày càng trở nên bất cập của pháp luật thuế nhà, đất hiện hành để sắc thuế này thực sự thể hiện vai trò quan trọng của mình trong hệ thống pháp luật thuế Việt Nam. Pháp luật thuế nhà, đất hiện hành đã bộc lộ một số điểm yếu sau:
- Thứ nhất, việc xác định diện tích đất tính thuế còn nhiều bất cập.
Theo Thông tư số 83TC/TCT ngày 7/10/1994 hướng dẫn thi hành Nghị định số 94/CP của Chính phủ ngày 25/8/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp lệnh thuế nhà, đất, yêu cầu có ba loại tài liệu: giấy giao quyền sử dụng đất, bản đồ địa chính của lô đất, số liệu đo đạc thực tế với diện tích đất đang sử dụng. Tuy nhiên, trong thực tế, do khó hội đủ các tài liệu trên nên phần lớn các trường hợp tính thuế đều căn cứ vào tờ khai của đối tượng nộp thuế. Điều này khó tránh khỏi sự chênh lệch giữa diện tích đất ở thực tế với diện tích kê khai nộp thuế, dẫn đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải mất nhiều chi phí cho việc thực hiện xác minh, kiểm tra. Theo kết quả của Tổng cục thống kê địa chính, diện tích đất thu thuế năm 2001 là 302.000 ha trên tổng diện tích đất chịu thuế là 469.669 ha, tức chỉ chiếm 64,1% tổng diện tích đất ở.
- Thứ hai, việc phân chia hạng đất tính thuế không còn phù hợp với tốc độ phát triển, đặc biệt là các khu đô thị
Yếu tố hạng đất theo quy định hiện hành được xác định căn cứ vào loại đô thị (từ I đến VI), loại đường phố (dựa vào vị trí đất ở khu vực trung tâm, cận trung tâm hay ven đô), các điều kiện có lợi trong sản xuất, kinh doanh, sinh hoat… Với tốc độ đô thị hoá mạnh mẽ như hiện nay, quy định này từ năm 1994 đã không còn phù hợp, gây khó khăn cho những địa phương mới được xếp hạng lên đô thị loại cao hơn. Khi những khu đô thị hóa như Hà Nội, hay TP Hồ Chí Minh khi tốc độ kinh tế phát triển nhanh thì việc xác định những hạng đất là vấn đề rất phức tạp.
- Thứ ba, xác định mức thuế đất quy định dựa vào mức thuế sử dụng đất nông nghiệp đã dẫn đến việc xác định thuế gặp nhiều khó khăn
Quy định như vậy vừa không thể hiện được tính độc lập của loại thuế này vừa không đảm bảo tính hoàn thuế một cách chính xác, hợp lý, không đảm bảo công bằng bởi phải dựa vào việc xác định hạng đất theo Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp. Quy định phân hạng đất tại Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1193 về mặt hình thức là rất khoa học. Tuy nhiên trên
- Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế nhà dựa trên diện tích, giá tính thuế và thuế suất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có kỹ thuật xác định diện tích tính thuế đảm bảo phù hợp với giá trị, công năng sử dụng của nhà, các công trình gắn trên đất. Việc xác định giá tính thuế cần hợp lý, sát với giá thị trường và phù hợp với đặc thù của từng loại nhà cụ thể. Thuế suất với tư cách là “ linh hồn” của một sắc thuế nên thiết kế theo tỷ lệ phần trăm (%) và ở mức thuế suất thấp bởi sắc thuế này có đối tượng nộp thuế khá đông đảo. Việc động viên hợp lý thu nhập từ nhiều bộ phận dân cư thông qua thuế nhà sẽ có tác dụng khuyến khích người dân thực hiện nghiêm chỉnh các quy định các quy định của pháp luật về nghĩa vụ thuế cũng như tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý có hiệu quả quỹ nhà, động viên nguồn thu cho ngân sách và cũng là tạo điều kiện mở rộng đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng.
Pháp luật về thuế nhà cũng cần quy định những trường hợp sở hữu, sử dụng nhà được miễn hay giảm thuế trong những trường hợp nhất định (nhà sử dụng cho lợi ích công cộng, nhà của các đối tượng thuộc diện chính sách, gặp khó khăn trong cuộc sống v.v.) nhằm mục đích khuyến khích. Những quy định này là cần thiết vì bên cạnh mục đích quản lý nhà nước, tạo nguồn thu cho ngân sách, thuế nhà còn góp phần đảm bảo sự công bằng, giảm bớt khoảng cách giàu cùng kiệt giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.Đồng thời, do phạm vi chủ thể nộp thuế nhà sẽ tương đối rộng nên quy định của pháp luật về thuế nhà cần dễ hiểu, dễ thực hiện; cần triển khai từng bước để tránh ảnh hưởng lớn đối với xã hội.

KẾT LUẬN

Cuối cùng, chúng ta nhận thấy rằng, trong điều kiện hiện nay, khi quỹ đất nông nghiệp đang dần bị thu hẹp, tình trạng đầu cơ nhà đất còn phổ biến, nhu cầu nhà ở ngày một tăng cao thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật thuế nhà, đất ngày càng trở nên cấp thiết. Đất đai là tài sản của quốc gia, việc đánh thuế với người sử dụng đất và sở hữu các tài sản trên đất, đặc biệt là nhà, không những giúp cho công tác quản lý nhà nước đối với đất đai đạt hiệu quả mà còn tác động vào ý thức sử dụng tiết kiệm, hợp lý của người dân với loại tài sản đặc biệt này đồng thời duy trì nguồn thu quan trọng cho ngân sách quốc gia.
Dự thảo thuế nhà đất đã được Bộ Tài chính soạn thảo, xin ý kiến tham gia của các ngành các cấp , tổ chức xã hội và các cá nhân,… đang được trình Chính phủ xem xét cho ý kiến trước khi trình Quốc hội thảo luận và thong qua. Tuy còn có nhiều luồng ý kiến trái chiều của các nhà lập pháp cũng như của các đối tượng trong các tầng lớp nhân dân, nhưng Luật Thuế nhà đất ra đời hứa hẹn khắc phục được các bất cập trong pháp luật thuế nhà đất hiện nay, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước và khắc phục tình trạng đầu cơ nhà đất để người có thu nhập thấp cũng có khả năng có nhà ở ổn định cuộc sống. Hơn nữa các quy định của pháp luật cũng nên cải cách theo hướng đơn giản hóa để các thành phần dân cư đều có thể hiểu và dễ dàng thực hiện như thế pháp luật mới dễ dàng đi vào đời sống.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Tiêu chuẩn Công chứng Viên theo pháp Luật những hạn chế bất cập và giải pháp hoàn thiện Luận văn Luật 0
R Một số kiến nghị và giải pháp khắc phục những bất cập trong thu hút các dự án FDI Luận văn Kinh tế 0
K Khắc phục những bất cập trong chính sách bảo hiểm xã hội Kinh tế quốc tế 0
C Nhận diện những bất cập và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy trình tuyển/xét chọn các đề tài/dự án th Kinh tế quốc tế 2
Q Những bất cập trong chính sách nhà ở cho người thu nhập thấp của thành phố Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
B NHỮNG BẤT CẬP TRONG THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH Tài liệu chưa phân loại 0
V Thuế giá trị gia tăng, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời gian tới Luận văn Kinh tế 2
D Hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu những bất cập và giải pháp ở Công ty Bánh Kẹo Hải Châu Tài liệu chưa phân loại 2
L Đề án: Những bất cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
L Những bất cập trong thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top